Cẩm nang Du Lịch Bắc Kạn mới nhất
19/07/2023
Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía đông giáp tỉnh Lạng Sơn, phía nam giáp tỉnh Thái Nguyên và phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang. Diện tích đất tự nhiên 4.859 km2, dân số 313.084 người, gồm 7 dân tộc anh em (Tày, Nùng, Kinh, Dao, Mông, Hoa và Sán Chay) sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 80%. Bắc Kạn là tỉnh giàu tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên, khoáng sản và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc miền núi đông bắc Việt Nam. B
1 . Du lịch Bắc Kạn vào thời gian nào?
Khí hậu Bắc Kạn có sự phân hóa theo mùa rất rõ rệt với mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô khéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Do nằm giữa 2 hệ thống núi cánh cung của Đông Bắc nên Bắc Kạn khá lạnh về mùa đông.
Các bạn có thể đi đến Bắc Kạn nghỉ ngơi tại Vườn quốc gia Ba Bể vào khoảng thời gian từ tháng 5-9, thời điểm này miền Bắc bắt đầu nắng nóng nhưng khu vực này lúc nào cũng mát mẻ do được bao bọc bởi các dãy núi.
Khoảng tháng 1 (âm lịch) hàng năm thường là dịp lễ hội của các dân tộc vùng cao, nếu đi du lịch Bắc Kạn vào thời điểm này bạn sẽ có cơ hội tìm hiểu các nét độc đáo trong văn hóa cũng như khám phá nét ẩm thực của người dân vùng cao.
2 . Hướng dẫn đi tới Bắc Kạn
Phương tiện cá nhân
Bắc Kạn cách Hà Nội khoảng 150km thông qua tuyến QL 3 đi qua Thái Nguyên. Trước đây, từ Hà Nội lên Bắc Kạn thường mất khoảng 4-5 tiếng do QL 3 là tuyến đường khá nhỏ, mật độ phương tiện nhiều. Tuy nhiên, hiện tại tuyến đường cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên – Chợ Mới đã được khai thông nên thời gian lên đến Bắc Kạn chỉ còn khoảng hơn 2 tiếng.
Phương tiện công cộng
Tùy vào nơi định đến các bạn có thể lựa chọn các tuyến xe khách Bắc Kạn phù hợp, các xe này đa phần xuất phát từ bến xe Mỹ Đình. Nếu muốn đi buổi tối, các bạn có thể tham khảo các tuyến xe đi Cao Bằng bởi lộ trình lên tới Cao Bằng cũng thường đi qua một số địa điểm ở Bắc Kạn.
3 . Lưu trú ở Bắc Kạn
Dù có nhiều tiềm năng nhưng du lịch Bắc Kạn vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Ví như hồ Ba Bể và Vườn Quốc gia Ba Bể nằm ở xa khu dân cư, điều kiện đi lại gặp nhiều khó khăn nên khó thu hút du khách. Ngoài ra, việc phát triển dịch vụ du lịch không thường xuyên, chưa chuyên nghiệp và chỉ mang tính mùa vụ. Hệ thống cơ sở lưu trú ở Bắc Kạn (ngoài khu vực Ba Bể) còn khá ít, chưa được đầu tư xây dựng để có thể đón tiếp lượng khách du lịch theo đoàn.
KHÁCH SẠN Khách Sạn Paradise
Địa chỉ: Nông Thượng, Tp Bắc Kạn, Bắc Kạn
Điện thoại: 0209 3885 885
HOMESTAY Le Jardin
Địa chỉ: Phùng Chí Kiên, Tp Bắc Kạn, Bắc Kạn
Điện thoại: 096 703 03 28
KHÁCH SẠN Green Hotel & Coffee
Địa chỉ: Phùng Chí Kiên, Tp Bắc Kạn, Bắc Kạn
Điện thoại: 097 105 82 58
NHÀ NGHỈ Nhà nghỉ Hưng Vân
Địa chỉ: 368 Tổ 16 Phường Nguyễn Thị Minh Khai, Tp Bắc Kạn, Bắc Kạn
Điện thoại: 098 387 38 44
Du lịch Bắc Kạn trong thời gian qua đã có những cách làm mới khi xuất hiện loại hình du lịch cộng đồng (homestay) để mang đến những trải nghiệm thú vị cho du khách. Du lịch homestay hiện nay chủ yếu xuất hiện ở hồ Ba Bể và Vườn Quốc gia Ba Bể với các điểm ở bản Pác Ngòi, thôn Cốc Tộc, Bó Lù.
Một số homestay tốt ở Ba Bể
CĂN HỘ RIÊNG Ba Be Lakeside Bungalow
Địa chỉ: Cốc Tộc, Nam Mẫu, Ba Bể, Bắc Kạn
Điện thoại: 091 226 75 59
NHÀ NGHỈ Ba Bể Legend Villa
Địa chỉ: ĐT254, Khang Ninh, Ba Bể, Bắc Kạn
Điện thoại: 097 730 29 10
HOMESTAY Minh Quang Homestay
Địa chỉ: Nam Mẫu, Ba Bể, Bắc Kạn
Điện thoại: 0395 420 267
HOMESTAY Huyền Hào Homestay
Địa chỉ: Thôn Pác Ngòi, xã Nam Mẫu, Ba Bể, Bắc Kạn
Điện thoại: 0376 496 504
HOMESTAY Trần Xuân Homestay
Địa chỉ: Pác Ngòi, Nam Mẫu, Ba Bể, Bắc Kạn
Điện thoại: 0378 360 570
4 . Các địa điểm du lịch ở Bắc Kạn
Vườn Quốc gia Ba Bể
Cách Hà Nội khoảng 250km, Vườn Quốc gia Ba Bể có hiện tích hơn 10.000 ha, có cấu tạo địa chất đặc biệt, nhiều núi cao, hang động, sông hồ, suối ngầm tạo nên cảnh quan đặc biệt hấp dẫn. Đây cũng là nơi bảo tồn các nguồn gen động thực vật quý hiếm. Với hơn 20 điểm tham quan hấp dẫn cùng các tuyến du lịch đi bộ trong rừng nguyên sinh, các bản làng du lịch văn hóa ..Vườn Quốc gia Ba Bể là một địa điẻm du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng hấp dẫn.
Hồ được hình thành do sự biến động cấu tạo địa chất cách đây hàng triệu năm làm sụt lún các dãy núi đá vôi, hang động. Hồ được hợp thành từ ba hồ (Pé Lèng, Pé Lù, Pé Lầm) nên có tên gọi là hồ Ba Bể. Hồ có chiều dài hơn 8km, chỗ rộng nhất 2km, diện tích mặt nước 500ha, độ sâu trung bình 20m, chỗ sâu nhất 35m, trên hồ có những hòn đảo nhỏ xinh đẹp, trong hồ có hàng trăm loài cá nước ngọt sinh sống, trú ngụ.
Do cấu tạo địa chất đặc biệt nên hồ Ba Bể có những nét riêng rất khác biệt so với các hồ cacxtơ trên thế giới. Vì vậy Hội nghị quốc tế về hồ nước ngọt tổ chức tại Mỹ tháng 3 năm 1995 đã xếp hồ Ba Bể là 1 trong 20 hồ nước ngọt tự nhiên đẹp của thế giới cần được bảo vệ. Năm 2012, hồ Ba Bể được công nhận là Di tích danh thắng Quốc gia đặc biệt.
Động PuônG
Không biết từ bao giờ, dòng sông Năng hiền hòa là thế mà đục thủng cả vách núi đá vôi để tạo thành một dòng chảy với những hang động kỳ vĩ. Nhiều người còn ví động Puông như hàm cá mập khổng lồ há miệng nuốt từng áng thuyền độc mộc cứ nối đuôi nhau xuôi dòng.
Động Puông thuộc xã Cao Thượng, Ba Bể. Là một hang thông hai đầu, động Puông có chiều dài 300 mét, cao hơn 30 mét với các vách đá đứng và nhiều nhũ đá có nhiều hình dạng, màu sắc khác nhau, được hình thành khi con sông Năng chảy xuyên qua bên dưới núi đá vôi Lũng Nham tạo nên một cảnh quan đá vôi rất ngoạn mục với lối vào ra thông thoáng cho dòng sông Năng tự do lưu chuyển. Cửa động nơi đây vút đứng và khá phẳng, tưởng như ai đó đã buông một nhát chém ngọt ngào vào khối đá mềm từ hàng triệu năm trước. Do có nhiều ánh sáng mà từ phía bên ngoài động đã lộ hiện những mảng đá hoa cương từng bị che lấp bởi những thảm rêu xanh theo thời gian. Bên trong động, những dải thạch nhủ hình thù kỳ lạ rủ xuống soi bóng lung linh trên dòng nước. Càng vào sâu bên trong, tuy lòng động khá tối nhưng vẫn đủ sức hấp dẫn du khách bởi trên vòm động có cả hàng vạn con dơi đang sinh sống hay trú chân. Thuyền bè có thể đi trên sông Năng xuyên qua động Puông.
Thác Đầu Đẳng
Thác Đầu Đẳng nằm giữa hai dãy núi đá vôi trên dòng sông Năng, nơi tiếp giáp giữa Bắc Kạn và Tuyên Quang. Sông Năng sau khi luồn dưới núi Lũng Nham tạo thành động Puông, khi chảy đến bản Húa Tạng thì bị chặn lại bởi hàng trăm tảng đá lớn, nhỏ xếp chồng lên nhau với độ dốc chừng 500m, tạo thành một thác nước kỳ vĩ ba bậc, mỗi bậc thác cách nhau từ 3-4m theo chiều dài. Khu vực này cũng là nơi xuất hiện loại cá chiên, một trong những loài cá hiếm thấy hiện nay với nhưng con có cân nặng hàng chục kg.
Ao Tiên
Nằm ở góc “hồ ba” của Hồ Ba Bể, Ao Tiên là một hồ nước nhỏ xinh xắn nằm lọt giữa lòng chảo đá vôi biệt lập với hồ chính. Từ bờ hồ chỉ đi bộ một chút là bạn có thể tới được ao. Ao được nuôi dưỡng bởi nước ngầm thấm qua đá ở xung quanh, làm cho Ao Tiên có cùng mực nước với Hồ Ba Bể.
Ao Tiên là nơi ở của một số loài cá địa phương và các động vật dưới nước khác. Những người đánh cá địa phương thỉnh thoảng đến đây đánh bắt cá, mặc dù chắc chắn rằng đây là nơi dành cho sự yên tĩnh và tách biệt hơn là để hy vọng đánh bắt lớn. Giống như các đặc trưng riêng biệt của Ba Bể, Ao Tiên gợi lên truyền thuyết địa phương; cái tên “Ao Tiên” muốn nói đến một câu chuyện về một người thợ săn trong lúc qua Ao Tiên đã bị hút hồn bởi vẻ đẹp của các nàng tiên đang tắm trong ao.
Đảo Bà Góa
Đảo Bà Góa (Tiếng địa phương là Pò Giả Mải) hòn đảo nhỏ xinh xắn nằm giữa hồ 1(Pé Lèng) của hồ Ba Bể. Đảo được tạo thành bởi những phiến đá to nhỏ, xếp chồng lên nhau, cây cối trên đảo xanh tốt quanh năm, rễ cây buông xuống ôm lấy những phiến đá, nhìn xa đảo như một hòn non bộ giữa mặt hồ.
Tương truyền đảo chính là nơi sinh sống của hai mẹ con bà góa tốt bụng năm xưa đã dùng vỏ trấu lấy từ hạt thóc bà Tiên cho tách làm đôi biến thành hai chiếc thuyền độc mộc đi cứu giúp dân lành trong trận đại hồng thuỷ hình thành hồ Ba Bể.
Đảo Bà Goá điểm du lịch hấp dẫn, viên ngọc xanh in bóng lung linh giữa hồ nước trong xanh, nơi lý tưởng dành cho du khách tham quan và chụp những bức hình kỷ niệm về chuyến đi đến với khu du lịch vườn Quốc Gia Ba Bể, Bắc Kạn.
Bản du lịch Pác Ngòi
Bản du lịch văn hoá Pác Ngòi, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể là bản nhà sàn của đồng bào dân tộc Tày bên bờ sông Lèng sát với hồ Ba Bể. Bản có hơn 80 hộ dân với gần 400 nhân khẩu. Đặc biệt dân trong bản đều là người Tày.
Bản Pác Ngòi hiện còn một số ngôi nhà sàn cổ, lợp ngói máng âm dương, kiểu dáng kiến trúc độc đáo. Người dân trong bản bao đời nay sinh sống bằng nghề trồng lúa, ngô ở các bãi bồi ven sông và đánh bắt cá tôm trên hồ Ba Bể. Hiện nay đa số các hộ dân trong bản đều tham gia các hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch.
Đến với bản Pác Ngòi bạn sẽ được trải nghiệm và thưởng thức những món ăn ngon đặc sản của vùng hồ (Cơm lam, cá nướng, tép chua, thịt chua, dạ yến, xôi ngũ sắc….); ngủ nhà sàn; tham quan hồ bằng thuyền độc mộc; đánh bắt cá trên sông, hồ; xem các thiếu nữ Tày biểu diễna hát then đàn tính và cùng người dân nơi đây đi tham quan các bản làng dân tộc vùng hồ Ba Bể và mua các sản phẩm đặc sản của địa phương.
Động Hua Mạ
Khu vực vườn quốc gia Ba Bể. Hang nằm bên dòng sông Lèng và thuộc bản Pắc Ngòi, xã Quảng Khê, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Động Hua Mạ nằm ở lưng chừng ngọn núi Cô Đơn nằm giữa khu Lèo Pèn (Rừng Ma) cây cối xanh rì, rậm rạp. Động Hua Mạ ăn sâu vào lòng núi theo hướng Đông – Nam quanh năm u tịch và được người dân bản địa gọi là hang Lèo Pèn.
Theo truyền thuyết của cư dân địa phương, Rừng Ma xưa kia là nơi ma quỷ ngự trị, sau đó có một vị tướng triều đình đi tuần thú qua đây và đã nghe được tiếng hú của những oan hồn của dân binh đã cùng triều đình chống giặc không được siêu thoát, quan quân liền hạ trại ngay cạnh bờ sông Lèng và mổ ngựa, lấy đầu ngựa làm lễ tế trời đất. Sau khi tế lế, những tiếng hú biến mất và qua năm tháng đã mọc lên những khối nhũ đá rất đặc biệt kỳ vĩ. Từ đó người ta gọi sơn động “Lèn Pèn” là động Hua Mạ hay tiếng địa phương gọi là hang Đầu Ngựa.
Chân núi Cô Đơn nằm ở độ cao 350 m so với mực nước biển. Đường từ chân núi đến cửa động đã được xây thành những bậc thang, du khách phải leo núi 300 mét là đến Động Hua Mạ, cửa động rộng 3 mét, cao 5 mét. Động Hua Mạ có lòng hang rất rộng khoảng 1ha, chiều dài tới hơn 700m, trần động có chỗ rộng và cao tới 40 – 50m, chứa đựng nhiều vách, nhũ đá kỳ vĩ. Động Hua Mạ mới chỉ được khảo sát du lịch vào năm 2003-2004 và hiện vẫn chưa phát triển nhiều về dịch vụ du lịch cũng như số lượng du khách.
Thác Bạc Bản Vàng
Thác Bạc nằm ở địa bàn xã Hoàng Trĩ thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Bể. Từ đỉnh đèo Khau Vàng nhìn Thác Bạc như một dải lụa trắng, là điểm du lịch lý tưởng cho những ngày hè oi bức.
Thác có chiều cao khoảng 40m, có vách đá gần như thẳng đứng, ẩn trong màu xanh của rừng cây, phía dưới có các vũng nước trong vắt cùng với những hòn đá to, thoai thoải, bạn có thể tắm, hưởng thụ một không gian yên bình tại đây. Dòng chảy của nước hiền hòa mà cuồn cuộn đổ xuống từ trên cao, đập mạnh vào những tảng đá dưới chân thác làm tung lên hàng ngàn bọt nước trắng xóa. Cảm giác được ngâm mình thư giãn trong dòng nước mát rượi, bao mệt nhọc sẽ tan biến, chỉ còn lại sự thư thái đầy sảng khoái. Thác Bạc mang vẻ đẹp của thiên nhiên hoang sơ thuần khiết. Ngắm thác bạc, bạn như được đi vào một không gian thiên nhiên mênh mông, dù đã được Vườn Quốc gia Ba Bể đưa vào khai thác du lịch nhưng không gian nơi đây vẫn còn rất hoang sơ. Nước của con thác từ dòng suối đổ về, những khối đá chắn lại tạo thành những tầng bậc. Lúc thì dịu dàng lách qua những hòn đá để chảy về hạ nguồn, lúc thì tuôn trào dữ dội. Vào mùa mưa, nước từ trên cao đổ xuống tạo thành cuộn sóng lớn, không khí mát rượi, thiên nhiên thuần khiết, hiện nay thác được nhiều bạn tìm đến tham quan tắm mát trong những ngày hè.
Đứng ở dưới thác tầng một nhìn lên, bạn sẽ thấy thác đẹp như một bức tranh nhiều màu sắc, màu trắng trong tinh khiết của nước, màu tím, hung của đá, xen lẫn với màu xanh của cây rừng, tất cả sẽ làm bạn ấn tượng khó quên biết nhường nào. Nghỉ ngơi một lát, bạn đi tiếp đến điểm thác tầng 2 là điểm lý tưởng để thưởng thức dòng nước sạch trong mát và có thể dùng lực chảy của dòng nước để mát-xa đôi bàn chân sau chặng đường dài. Đến Thác Bạc, bạn sẽ cảm nhận được sự hùng vĩ trong sự bình yên, hoang sơ của núi rừng, không khí trong lành, tinh khiết mà man mác hương hoa rừng, tất cả sẽ là những giây phút khó quên để một lần đến rồi lại muốn nhiều lần đến nữa.
Đền An Mã
Đền An Mã (An Mạ) toạ lạc trên đảo An Mã giữa hồ Ba Bể. Đây là ngôi đền cổ được trung tu xây dựng lại năm 2007. Đền thờ Phật, Mẫu Thượng Ngàn, Chúa Sơn Trang, Đức Thánh Trần….
Tương truyền đền là nơi thờ các vị trung thần nhà Mạc trong cuộc chiến tranh phong kiến thời Lê Mạc, sau khi bị thua trận đã chạy đến động Puông rồi tuẫn tiết tại đó. Để tưởng nhớ các vị trung thần, người dân nơi đây đã dựng đền thờ họ Mạc, song sợ bị quan quân nhà Lê trả thù nên đã đổi tên thành đền thờ họ Ma. An Mạ theo tiếng dân tộc Tày có nghĩa là “mồ yên mả đẹp” nơi yên nghỉ của các trung thần họ Mạc.
Đền An Mã là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của người dân địa phương, khách thập phương và cũng là nơi dâng lễ hội xuân Ba Bể tổ chức vào ngày 10 tháng giêng. Hội đền An Mã được tổ chức vào ngày 6 tháng hai âm lịch hàng năm
Động Nả Phoòng
Với địa hình khu vực hiểm trở, nên trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, động Nả Phoòng được chọn là nơi đặt trụ sở Đài Tiếng nói Việt Nam (1950 – 1954)
Động nàng Tiên
Động Nàng Tiên thuộc xã Lương Hạ, huyện Na Rì, cách thị trấn Yến Lạc 5 km về phía đông, động sâu hơn 200m, trần động chỗ cao nhất khoảng 30m, lòng động rộng trung bình 20m, trong động có nhiều nhũ đá đẹp.
Cùng với thời gian hàng triệu triệu năm do sự bào mòn và lắng đọng của nước trong núi đá vôi đã tạo thành những khu ruộng bậc thang tuyệt đẹp. Đặc biệt trong động còn có một vòm đá rộng, bên trong có một phiến đá lớn phẳng, kích thước như một chiếc gường, xung quanh nhũ đá rủ xuống như tấm rèm mềm mại, lấp lánh tựa như căn phòng ngủ lộng lẫy. Tương truyền các tiên nữ nhà trời khi ghé thăm trần gian đã nghỉ lại tại căn phòng này, nên động có tên gọi là động Nàng Tiên như hiện nay.
Thác Nà Khoang
Thác Nà Khoang nằm cách trung tâm thị trấn Nà Phặc, huyện Ngân Sơn khoảng 6 km. Thác nằm ở chân Đèo Gió, cạnh quốc lộ 3 và khu vực thác có diện tích khoảng 12 ha. Thác Nà Khoang là nơi hợp thành của hai con suối lớn, suối Nà Đeng chảy qua khe núi Lũng Chang, một con suối nhỏ bắt nguồn từ đỉnh núi Phia Sliểng chảy từ hướng Tây Nam xuống khoảng 88 m thì hợp thủy với dòng suối Nà Đeng, với độ dốc lớn đã tạo thành hệ thống thác 4 tầng dài khoảng 600m, chiều rộng trung bình 15m, sau đó chảy xuống suối Bản Mạch. Phía trên thác còn có một hồ nước nhỏ trong xanh có thể sử dụng làm nơi bơi lội.
Đèo Gió, Ngân Sơn
Đèo Gió nằm trên trục đường Quốc lộ 3 đoạn từ Bắc Kạn lên Cao Bằng, cách thành phố Bắc Kạn 50km và cách trung tâm huyện Ngân Sơn khoảng 10km. Với độ cao 800m so với mực nước biển, Đèo Gió thường xuyên có sương phủ quanh năm. Đây là điểm nghỉ chân trên chặng đường du lịch Cao Bằng, các bạn có thể mua rất nhiêu các loại nông lâm thổ sản của Bắc Kạn tại đây.
Hồ sinh thái Bản Chang
Hồ Bản Chang thuộc địa phận xã Đức Vân, cách Trung tâm huyện lỵ huyện Ngân Sơn 6 Km về phía nam, giáp với tuyến Quốc lộ số 3 đường đi Cao Bằng. Là một hồ nước tự nhiên tuyệt đẹp, có hình bán nguyệt, địa thế lý tưởng, nằm trong thung lũng, với diện tích mặt Hồ khoảng 5ha, xung quanh là những cánh rừng thông bạt ngàn, khí hậu đặc biệt trong lành mát mẻ; phù hợp để đầu tư phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và các hoạt động du lịch tập thể như: chèo thuyền, bơi lội, câu cá, cắm trại…
Khu Bảo tồn Thiên nhiên Kim Hỷ
Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ nằm trên địa bàn các xã Kim Hỷ, Lương Thượng, Lạng San, n Tình, Côn Minh của huyện Na Rì và xã Cao Sơn, Vũ Muộn của huyện Bạch Thông. Tổng diện tích 14.772 ha.
Do địa hình núi đá dốc chia cắt mạnh, nên trong Khu bảo tồn có nhiều hang động, suối ngầm, tạo ra một vùng cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, không chỉ phục vụ nhu cầu nghiên cứu, bảo tồn các loài gen quý hiếm mà còn đáp ứng nhu cầu khám phá thiên nhiên của khách du lịch.
Du lịch văn hóa lịch sử
Di tích Nà Tu
Di tích lịch sử Nà Tu thuộc xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông, nằm cạnh quốc lộ 3, cách thị xã Bắc Kạn 9km về phía bắc. Đây là nơi đóng quân của phân đội thanh niên xung phong 312 làm nhiệm vụ bảo vệ cầu Nà Cù và đoạn đường Nà Cù – Phủ Thông trong thời kỳ chống Pháp.
Di tích Đồn Phủ Thông
Đồn Phủ Thông, cách ngã ba Phủ Thông 300m (điểm giao nhau giữa đường quốc lộ 3 và đường 258 ) thuộc thị trấn Phủ Thông, huyện Bạch Thông, cách thành phố Bắc Kạn 18 km về phía bắc. Đây là nơi quân đội Pháp chiếm đóng và xây đồn kiên cố từ năm 1947.
Di tích Đèo Giàng
Đèo Giàng nằm trên trục đường quốc lộ 3 đoạn từ Bắc Kạn đi Cao Bằng (Giáp gianh giữa 2 huyện Bạch Thông và huyện Ngân Sơn của tỉnh Bắc Kạn), cách thành phố Bắc Kạn 24km về phía bắc.
Đây là nơi diễn ra trận đánh của trung đoàn Thủ Đô phá hủy toàn bộ xe cơ giới của quân Pháp trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Khu ATK – Chợ Đồn
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với các huyện Đại Từ, Định Hoá (Thái Nguyên), Sơn Dương, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), huyện Chợ Đồn đã được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn làm an toàn khu cho cuộc kháng chiến.
Trong thời gian từ năm 1947 đến 1952, hầu hết các cơ quan Trung ương đã đóng ở huyện Chợ Đồn như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Cơ quan Vô tuyến điện, Nha kỹ thuật quân sự, Trường Quân chính, Xưởng quân giới, Xưởng in báo Cứu Quốc, Trạm phẫu thuật quân y…
Hiện nay quần thể di tích lịch sử ATK – Chợ Đồn với 06 di tích lịch sử cấp quốc gia (Bản Ca, Nà Pậu, Khuổi Linh, Bản Bẳng, Nà Quân, Đồi Khau Mạ), 04 di tích lịch sử cấp tỉnh (Nà Pay, Phja Tắc, Đồi Khuổi Đăm, Nà Kiến) và 16 di tích đã kiểm kê.
5 . Du lịch Văn hóa Lễ hội
Lễ hội xuân Ba Bể
Hội xuân Ba Bể là lễ hội đầu năm của đồng bào các dân tộc vùng hồ Ba Bể, gồm 2 phần lễ và hội. Phần lễ được tổ chức cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Phần hội gồm các chương trình văn nghệ dân gian hát then đàn tính, múa khèn…; các trò chơi dân gian như: Kéo co, đẩy gậy, tung còn, bắt vịt trên hồ, đua thuyền độc mộc, chọi bò, đấu võ dân tộc….
Lễ hội lồng tồng Bằng Vân
Lễ hội lồng tồng Bằng Vân được tổ chức tại xã Bằng Vân vào ngày 15 tháng giêng âm lịch hàng năm, gồm 2 phần lễ và hội.Phần lễ cầu cho mưa thuận, gió hòa, nhân an, vật thịnh, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Phần hội có các trò chơi dân gian như: Kéo co, tung còn, đẩy gậy, đi cầu thăng bằng, bịt mắt bắt dê; hát đối đáp giao duyên shi, lượn (Tày, Nùng), Páo dung (Dao)
Lễ hội chợ tình Xuân Dương
Không nổi tiếng như chợ tình Khâu Vai ở Hà Giang hay chợ tình Sa Pa của Lào Cai, nhưng chợ tình Xuân Dương lại mang trong mình những nét văn hóa hết sức đặc trưng của cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng huyện Na Rì, huyện Chợ Mới (Bắc Kạn) và các huyện lân cận của tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên.
Chợ tình Xuân Dương bắt nguồn từ câu chuyện cảm động của đôi vợ chồng trẻ người dân tộc Tày yêu thương nhau hết mực, ở thôn Pác Sen, xã Xuân Dương, huyện Na Rì. Họ nên duyên vợ chồng từ những câu sli, câu lượn tại các lễ hội lồng tồng được tổ chức ở địa phương. Một ngày nọ, để chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới, hai vợ chồng cùng nhau đi làm đồng, chồng thì cuốc đất ở đầu ruộng, còn vợ phát cỏ nơi cuối đồng. Đến trưa, mặt trời đứng bóng, người chồng đã thấm mệt, gọi vợ về nghỉ thì chỉ nghe tiếng núi rừng vọng lại. Chạy mãi mới tới đầu ruộng nơi vợ làm việc, người chồng chỉ thấy cán dao gẫy, cỏ cây nát trơ, là chứng tích của một cuộc vật lộn, xô đẩy còn sót lại. Mãi sau, chàng mới hay người vợ của mình đã bị đám người xấu bắt đi, chàng hiểu rằng nàng đã chống trả quyết liệt, kêu cứu trong sự vô vọng, bởi thửa ruộng quá dài, khoảng cách giữa hai người quá xa, nên chàng không thể nghe thấy để đến cứu vợ mình.
Biết chuyện, dân bản ai cũng tỏ lòng thương xót cho đôi vợ chồng trẻ. Từ đó, thửa ruộng ấy được người dân trong bản đặt tên là Nà Rỳ (ruộng dài) để nhớ về câu chuyện đầy cảm động của đôi vợ chồng trẻ ngoan hiền (Địa danh Nà Rỳ cũng được đặt làm tên của huyện, trải qua nhiều thế hệ người dân trong huyện dần đọc chệch đi thành huyện Na Rì như ngày nay). Sau này, gặp lại chồng cũ tại một phiên chợ, nàng mừng mừng, tủi tủi, nhưng cũng chỉ biết ôm nhau mà khóc chứ không thể hàn gắn lại tình xưa, vì mỗi người đều đã có gia đình riêng. Dân bản cảm động trước tình cảm ấy, nên để hai vợ chồng nọ có một ngày ôn lại chuyện xưa (đó là ngày 25/3 m lịch). Từ đó, ngày 25/3 âm lịch hằng năm đã trở thành ngày hội của những đôi nam và nữ trong vùng, để những người lỡ duyên trước đó được gặp nhau, ôn lại chuyện cũ.
6 . Ăn gì khi du lịch Bắc Kạn
Cá nướng Pắc Ngòi
Cá trong hồ Ba Bể có rất nhiều, thường được người dân đánh bắt thủ công, số lượng cá không nhiều nhưng chất lượng thì thật tuyệt vì thịt cá trắng, chắc và có vị ngọt. Người ta chọn lấy loại cá chỉ nhỏ bằng ngón tay cái, loại cá này vừa giống như cá bống, vừa giống con cá nẹp ở xuôi để làm món cá nướng.
Để có được món cá nướng, người dân nơi đây đã phải trải qua một quá trình chế biến cá, dù không khó nhưng lại mất thời gian. Cá tươi sau khi được đánh bắt chọn những con đều nhau, mổ lấy ruột bỏ đi và rửa sạch, sau đó cho vào chõ đồ chín tới. Tiếp đến người ta dùng nẹp tre để tạo thành kẹp, mỗi kẹp chừng 8 – 10 con. Đem những kẹp cá phơi cho khô ngoài nắng. Phơi khoảng 3 – 4 nắng là được. Khi ăn, ta chỉ việc gỡ cá ra khỏi nẹp tre và dùng cồn để nướng (giống như nướng mực), hoặc để cả kẹp cá mang nướng trên bếp than (nướng bằng than cá sẽ ngon hơn). Không cần nướng quá kỹ vì cá đã đồ một lần rồi. Ta chỉ nướng sơ cho cá vừa chín tới. Nướng kỹ quá cá sẽ bị đắng và khô ăn sẽ kém ngon.
Lợn sữa quay
Lợn sau khi chọc tiết thì dùng nước nấu lá ổi để cạo sạch lông, mổ moi và làm sạch trong bụng rồi nhồi vào trọng bụng lợn các nguyên liệu như quả mắc mật, tai hồi, thảo quả, quế chỉ … rồi đem quay trên than hồng. Khi quay thì thường xuyên lấy khăn nhúng nước lau chú lợn để phần da lợn ở ngoài không bị cháy, khi lợn gần chín thì dùng que xăm thủng lợn để nước và mỡ chảy ra.
Bỏ lợn ra khoảng 1 tiếng cho bớt nóng và để khi chặt thịt miếng thịt bày ra đĩa không bị nát. Đĩa thịt lợn quay vàng xộm thơm lừng ngon lành đến ứa nước miếng. Cắn miếng thịt quay có vị ngọt của thịt chín tới, vị thơm của lá mác mật, vị ngậy của thịt nướng, miếng thịt được tẩm ướp đậm đà, ăn một lần sẽ nhớ mãi.
Gà chạy bộ
Một đặc sản của các vùng đồi núi, gà được nuôi bằng thóc và thả rông cho nên thịt gà chắc, ngọt và thơm, đặc biệt da giòn ăn rất ngon.
Xôi nếp nương
Món ăn vô cùng phổ biến của người vùng cao, thường là món ăn kèm với các món thịt lợn, thịt gà nướng ở trên. Gạo được dùng để nấu thường là gạo nếp nương, khi nấu khá dậy mùi, hạt to và dẻo.
Mắm tép chua Ba Bể
Tép tươi mang về trộn đều với 1 bát cơm, 1 thìa muối, 1 chút rượu. Tất cả sau đó được cho vào lọ, đậy kín và ủ trong khoảng 1 tháng là có thể ăn được.
Rau rừng Bắc Kạn
Cũng như một số tỉnh vùng Đông Bắc khác, người dân vùng cao Bắc Kạn cũng có những loại rau rừng rất ngon cùng với sự chế biến khéo léo luôn mang lại hương vị khó quên cho khách du lịch. Nếu có dịp ghé những bản du lịch cộng đồng của người dân Bắc Kạn bạn có thể dễ dàng thưởng thức các loại rau này như: rau dớn, rau bồ khai, rau ngót rừng…
Rượu men lá Bằng Phúc
Rượu men lá của người Bằng Phúc khi uống có hương vị rất hấp dẫn, ngọt mát, rất dịu, êm hơn bất kỳ loại rượu nào khác. Rượu dù uống say đến đâu thì vẫn cứ sảng khoái, nhẹ nhõm.
Để làm ra men rượu, phải lên rừng tìm đủ các loại lá cây, thông thường men rượu được làm từ khoảng 16 loại lá rừng, hầu hết đều là những loại lá thuốc có tác dụng bồi bổ cơ thể và tạo nên hương thơm. Hái lá rừng là công đoạn vất vả nhất, để hái đủ các loại lá thì những người phụ nữ phải mất tới 3 đến 4 ngày đi rừng. Trong các loại lá cây, thì cây Thau Hương (một loại lá tạo mùi thơm) là loại khó lấy nhất, bởi đây là loại lá leo trên những cây cao, cổ thụ, nên chỉ có đàn ông mới hái được. Những ngày giáp Tết, nhu cầu thị trường cao hơn, nên việc đi rừng hái lá về làm men cũng vất vả hơn.
Sau khi hái đủ các loại lá, đến công đoạn rửa sạch, băm nhỏ và phơi khô rồi sắc lấy nước để ngâm gạo. Công đoạn này đòi hỏi người nấu phải tự ước lượng lá cây mỗi loại sao cho vừa đủ. Muốn làm được men ngon phải chọn được gạo ngon, đem ngâm 1 ngày, sau đó vớt ra để ráo nước rồi mới nghiền thành bột. Bột này đem trộn đều với nước lá và nặn thành từng viên men.
Bắt đầu từ tháng 8 trở đi, khi hết mùa mưa, nước thượng nguồn trong vắt, ngọt lịm, người dân dẫn nước về, làm ra những mẻ rượu thơm đượm vị rừng, ngọt mát vị núi và trong vắt như nước đầu nguồn. Nấu rượu men lá rất công phu, đòi hỏi sự khéo léo và tốn nhiều công sức. Quá trình cất phải dùng củi đun đều lửa, không cho cháy to quá cũng không nhỏ quá để rượu ra từ từ. Rượu men lá trở nên quý cũng vì cách làm kỳ công như thế.
Miến dong Na Rì
Miến dong Na Rì có hương vị đặc biệt là nhờ sử dụng nguyên liệu sạch, được chế biến theo quy trình đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Để làm ra loại miến thơm ngon này, củ dong riềng được nghiền nát để lấy tinh bột, hòa tinh bột vào nước và lọc nhiều lần để loại bỏ sạn và tạp chất, giúp cho miến có màu trong. Sau đó người ta quấy 1 phần bột dong, trộn với bột sống rồi đem đi tráng thành bánh. Bánh được đem đi phơi rồi đưa vào máy để cán thành sợi miến. Do làm từ nguyên liệu nguyên chất nên miến dong không có màu trắng trong như các loại miến khác mà sợi miến hơi đục. Bù lại, khi nấu sẽ cho sợi miến dai, giòn, có hương thơm đặc trưng của củ dong, không bị bở, không có sạn. Đến nay, đặc sản miến dong Na Rì đã được xếp vào danh sách 10 món ăn ngon nhất của Bắc Kạn.
Khâu nhục
Không chỉ ở Bắc Kạn, đây là món ăn khá quen thuộc ở các tỉnh vùng Đông Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn. Thịt lợn phải là thịt ba chỉ ngon, luộc sơ qua, dùng tăm tre chọc bì thật kĩ, tẩm ướp gia vị rồi đem quay, vưa quay vừa quết mật ong cho vàng bì. khoai cũng phải rán vàng,mọi thứ được xếp vào bát, cứ một miếng khoai, một miếng thịt cho nhân được làm bằng thịt, nấm hương, mộc nhĩ…đã xào lên trên, hấp cách thuỷ khoảng 5 tiếng đồng hồ.
Pẻng phạ
Nhìn bề ngoài bánh không có gì nổi bật, những viên bánh tròn tròn chỉ nhỉnh hơn quả nhãn lồng đôi chút, lớp bột trắng bên ngoài dù có cố gắng làm duyên đến mấy cũng không phủ kín màu hơi nâu nâu của bánh nằm ẩn bên trong. Tuy mộc và thô như vậy, song không phải ngẫu nhiên mà người Tày chọn đó là một trong những món ăn truyền thống của dân tộc mình để dâng lên trời đất. Chỉ một chiếc bánh nhỏ xíu, song hội tụ nhiều nguyên liệu, hương vị đặc trưng của người dân nơi đây với vị cay nồng của rượu, vị ngọt của đường, vị chát rất thơm của nước chè mạn, vị béo bùi của bột nếp…
Nguyên liệu chính để làm bánh là gạo nếp. Gạo nếp ngon, nhặt sạch thóc, sạn đem xay khô thật mịn tay làm bột nếp. Bột được nhào với nước chè mạn pha đặc để lấy màu nâu và vị chát rồi thêm một chút rượu trắng cho dậy mùi. Sau khi nhào thật kỹ cho bột dẻo và mịn có thể vê thành những viên cỡ quả nhãn. Vì bột nếp rất dính tay lại dễ bị chảy xệ nếu nặn xong mà không chế biến ngay nên người ta vừa nặn bánh vừa chuẩn bị đun một chảo mỡ nóng bên cạnh. Khi mỡ nóng già thả bánh vào rán cho nổi mỡ, vàng ruộm thì vớt ra để cho ráo mỡ, bánh rán hết mới bắt tay vào áo bánh. Đường được đổ vào xoong, châm thêm chút nước cho đường dễ tan chảy rồi đun sôi, thử độ kết đông của đường bằng cách nhỏ vài giọt nước lã vào thấy đường lăn thành giọt không bị hòa tan thì bắt đầu thả bánh vào cho ngập đường. Bánh vớt ra lăn ngay vào bột áo. Bột áo cũng được làm từ gạo nếp rang vàng rồi xay nhỏ mịn giống như làm thính, song khi rang non tay hơn bột thính một chút để bột có màu hơi ngà chứ không vàng thẫm. Bánh pẻng phạ bên trong dẻo, do tác động nhiệt lớn bột bánh bên trong chưa kịp ngấu nhiệt lớp bên ngoài đã cứng giòn nên bánh giống như có nhân ăn rất thú vị.
Lạp xường Bắc Kạn
Làm lạp xường cũng rất cầu kỳ và công phu. Đầu tiên phải chọn lòng để làm lớp vỏ lạp xường. Lòng non để làm lạp xường phải chọn đoạn lòng đắng vì phần lòng này dai và khá dày, làm lạp xường mới được. Sau khi tuốt rửa sạch lại phải bóc, lột bỏ lớp vỏ ngoài của lòng đi, chỉ lấy lớp màng mỏng bên trong. Việc bóc lòng không khó, chỉ cần khéo léo và nhẹ tay một chút. Lòng bóc xong, thổi hơi vào cho phồng lên, buộc chặt hai đầu, đem hong chỗ thoáng gió. Khoảng một tiếng đồng hồ, bộ lòng se lại, mỏng và dai như ni lông. Thế là được phần vỏ lạp xường.
Để làm nhân lạp xường người ta chọn loại thịt nửa nạc nửa mỡ. Bởi nạc nhiều, lạp xường sẽ khô, sác; mỡ nhiều, lạp xường sẽ nhão, ăn mau ngấy nên loại thịt thích hợp nhất để làm lạp xường là thịt vai. Thịt được lạng bỏ lớp bì, thái miếng vừa phải, ướp muối, đường, bột ngọt. Và không thể thiếu một ít rượu trắng, một ít nước gừng và một ít quả mắc mật khô xay nhỏ ướp cùng. Theo kinh nghiệm của đồng bào nơi đây thì ướp thịt với rượu trắng và nước gừng như vậy khiến cho lạp xường sẽ có mùi thơm rất đặc trưng, để được lâu mà không bị hỏng.
Công việc phức tạp nhất là nhồi lạp xường. Với một chiếc phễu và một chiếc đũa, từ từ dồn thịt vào cho đầy phần lòng non đã chuẩn bị. Để dễ làm, cứ nhồi được chừng hai ba mươi phân thì buộc lại thành khúc. Thỉnh thoảng lại lấy kim châm vài chỗ cho khí thoát ra để lạp xường khỏi nứt. Nhồi xong thì đem lạp xường đi phơi nắng cho khô dần. Hoặc đem hong trên gác bếp. Hơi ấm của bếp lửa sẽ làm lạp xường se lại, săn chắc. Lạp xường được nắng, được hơi lửa, cứ ánh lên màu đỏ hồng của thịt nạc xen những đường vân trắng ngà của thịt mỡ trông thật hấp dẫn. Ngày 27, 28 làm lạp xường thì khoảng mồng 2, mồng 3 tết là ăn được.
Lạp xường khi đã khô thì để nguyên cả khúc đem chiên cho chín sau đó mới thái lát, khi ăn chấm với mắm gừng. Hoặc thái lạp xường thành các khoanh dầy vừa phải, chờ cho mỡ trong chảo thật nóng già thì cho lạp xường vào, đảo lên, rưới thêm ít nước mắm, rắc thêm chút hành tươi. Đĩa lạp xường thơm phức, mới trông đã thấy thèm. Cho nên ngày tết, dù có bao món ngon, lạp xường vẫn là món được mọi người đụng đũa nhiều hơn cả.
Lạp xường được làm bằng bàn tay của người Bắc Kạn có mùi của nắng vùng cao, mùi của khói bếp, thoảng mùi gừng, mùi rượu, mùi mắc mật thơm một cách đặc biệt. Vị dai của lòng, vị ngọt của thịt nạc, vị béo của mỡ hòa quyện với nhau, ăn thật ngon miệng. Nhấp thêm chút rượu nữa thì càng thêm khoái khẩu.
Bánh ngải người Tày
Có một loại bánh mà chỉ người Tày mới có đó là bánh ngải. Bánh ngải có màu xanh đặc trưng của thiên nhiên, hình thù và cách làm gần giống với bánh dày của người miền xuôi. Làm bánh ngải không khó nhưng lại đòi hỏi sự công phu và khéo léo từ khâu chọn gạo, đường, rau ngải cho đến khâu ra bánh.
Bánh ngải kén gạo vì thế không phải loại gạo bất kỳ nào cũng làm được bánh. Muốn bánh thơm, dẻo phải chọn loại nếp nương và không được lẫn dù chỉ một hạt gạo tẻ. Đường để làm nhân bánh cũng phải lựa chọn rất cẩn thận, phải chọn đường phên (một loại đường thẻ, miếng to chừng bàn tay) có màu vàng, ngọt và không có sạn.
Lá ngải được rửa sạch, đun trong nước tro bếp từ 2 đến 3 giờ. Để có nước tro tốt, người ta chọn tro sạch, tốt nhất là tro tre nứa, hoặc tro vỏ đậu xanh. Tro sạch được lèn vào rá tre, để rá trên chậu tạo khoảng cách cho nước từ rá chảy xuống. Người ta đổ nước từ từ vào tro cho ngấm dần rồi chảy xuống chậu. Nước tro lúc đầu đặc có màu cà phê, sau loãng dần. Lá ngải đun trong nước tro rất chóng nhừ. Sau khi đun nhừ, đổ lá ngải ra rá, rửa nhiều lần cho sạch nước tro, nhặt bỏ sơ (gân lá, cuống lá già), vắt kiệt nước rồi nắm thành từng nắm bằng nắm tay.
Gạo làm bánh được ngâm từ tối hôm trước rồi đem đồ chín thành xôi vừa độ dẻo. Trong quá trình đồ, khi lên hơi, người ta thường tưới thêm lần nước để khi giã bánh sẽ dẻo hơn. Trong quá trình chờ xôi chín sẽ chuẩn bị nhân bánh, người ta đun đường phên lên thành mật sau đó trộn mật với vừng đen rang chín giã nhỏ. Nhân bánh chính là bí quyết tạo ra hương vị thơm ngon cho chiếc bánh.
Xôi đồ chín phải giã ngay lúc còn nóng cùng với những nắm lá ngải để bánh mềm, mịn và dẻo. Sau khi xôi được giã nhuyễn, các bà, các mẹ sẽ nhanh tay múc ra mâm để nặn bánh. Bánh được nặn thành hình tròn sau đó ấn dẹt ra, cho thìa nhân vào giữa, rồi gói vỏ bánh lại bọc kín lớp nhân bên trong thành hình như chiếc bánh dày là được. Cố gắng khéo léo để nhân không bị trào ra ngoài vỏ bánh. Mỗi chiếc bánh nóng hổi được đặt trên một khoanh lá chuối tròn nhỏ bằng chiếc bánh để chúng không dính vào nhau. Sau đó gói chung khoảng 10 cái bánh nhỏ vào một lớp lá chuối để giữ bánh được lâu hơn.
Bánh ngải là thứ bánh rất dễ ăn, mát và không ngấy, nếu ai đã từng ăn một lần sẽ không quên mùi vị của loại bánh dân dã này. Vị hăng hăng, thơm thơm là lạ của lá ngải như dung hòa cái dẻo, cái ngọt của nếp, của đường, miếng bánh có sự tươi non của đồi nương, cái hoang dã của lá rừng như gói cả mùa xuân trong mát.
Bánh trứng kiến
Bánh trứng kiến (tiếng Tày gọi là “pẻng rày”), nguyên liệu gồm: Trứng kiến, bột gạo, lá non của cây vả. Làm bánh trứng kiến việc vất vả nhất là đi lấy trứng kiến về để làm nhân bánh. Trước hôm làm bánh người ta vào rừng tìm trứng kiến. Loại kiến đen có thân nhỏ, đuôi nhọn, đi lại khá nhanh và thường làm tổ trên cây vầu. Tổ của chúng màu đen, hình tròn hoặc hình bầu dục được làm từ lá cây mục và kết chặt vào những cành cây. Kiến này cho trứng lành, cắn không đau và không độc như các loài kiến khác. Dùng dao chặt cành cây có tổ kiến đặt vào chậu hay rá rổ đan dày. Phá tổ, kiến bố mẹ sẽ nhanh chóng bỏ đi, để lại trứng. Dùng tay vỗ tổ kiến cho trứng kiến rụng ra. Tổ kiến to có thể bằng cái mũ. Để kiến bỏ đi nhanh và không tha theo trứng người Tày thường cho thêm mấy cành cây nhỏ vào chậu. Trứng kiến thực chất là ấu trùng kiến, chính vì vậy mà tỷ lệ đạm rất cao, nhiều chất bổ, tuy nhiên một số người ăn có thể bị dị ứng. Một người vỗ trứng kiến một buổi có thể được một vài cân
Vỏ bánh thì đơn giản hơn rất nhiều, gạo nếp được xay cho nhuyễn và cô thành bột dẻo, những người có kinh nghiệm khi làm bánh trứng kiến thường pha một tỷ lệ nhất định bột gạo tẻ vào chung với bột nếp, chất lượng bánh sẽ ngon hơn. Bên ngoài bọc những chiếc lá vả xanh non để làm áo cho những chiếc bánh.
Để làm nhân bánh người ta phi thơm hành rồi cho trứng kiến vào rang cho thơm phức và béo ngậy, việc này cũng phải hết sức khéo léo vì nếu quá lửa trứng sẽ cháy nát hết. Sau khi nhân bánh được chuẩn bị xong người ta sẽ tiến hành làm bánh. Bột gạo được dát mỏng vừa phải, dày cỡ nửa phân rồi áp vào lá vả non.
Tiếp đến là cho trứng kiến đã xào rải đều trên mặt miếng bột, sau đó gói miếng bột vào để bọc lấy nhân bánh, để bánh được đẹp hơn người ta cố gắng thật khéo tay để bánh được vuông vức. Cuối cùng là bọc bên ngoài một lớp lá vả bánh tẻ rồi cho vào nồi đồ như đồ xôi độ 30 phút là chín. Theo bà con người Tày đối với bánh trứng kiến không thể thay lá vả bằng loại lá khác. Khi ăn cũng đừng tìm cách bóc tách lớp lá vả non bên trong đi bởi phải ăn cả lớp lá này thì bánh mới bùi và ngon hơn rất nhiều, mà có muốn bóc cũng rất khó bởi lá vả non sau khi được hấp chín đã dính chặt vào bánh.
Măng vầu
Rừng Bắc Kạn có rất nhiều loại măng như: Măng tre, măng trúc, măng nứa, măng mai,… Nhưng nếu nói là đặc sản phải kể đến thứ “măng vầu” hay còn gọi là “măng đắng”.
Ở Bắc Kạn, người ta có thể chế biến măng thành rất nhiều món hấp dẫn. Măng củ (loại măng vầu được đào lên từ trong lòng đất) vốn đặc ruột thì để hầm xương hoặc lạng thành từng lát mỏng và dài để cuốn thịt. Còn với loại măng cái (măng vầu đã lên tai xanh) vì có vị đắng nên muốn ăn được thì phải luộc kĩ với muối sau đó ngâm nước lạnh, phần thân măng thái mỏng xào tỏi, phần áo măng để cuốn thịt răm hấp chín.
Nhưng ngon hơn cả vẫn là món măng luộc chấm mắm tôm chanh ớt. Có thể luộc cả măng củ và măng cái. Người không ăn được đắng có thể ăn loại măng củ luộc, chất non ngọt của củ măng tạo cho món ăn một hương vị dìu dịu, mát ruột và rất dễ ăn. Những người sành ăn măng thì hay chọn ăn loại măng luộc thật đắng. Vì như vậy mới cảm nhận hết được sự thú vị của món ăn này, cái cảm giác đắng, chát cứ mất dần sau mỗi miếng nhai nhẩn nha thay vào đó là cảm giác thoang thoảng ngọt, nhẹ nhẹ cay, rất lạ.
Măng ớt Bắc Kạn
Măng thái nhỏ, ớt và mắc mật để cả quả, rửa sạch để ráo. Tất cả được ngâm chung với nước muối có độ đậm vừa. Màu trắng của măng xen lẫn với màu đỏ tươi của ớt và màu xanh nâu của mắc mật thơm nồng là món quà thắm đượm hương vị quê nhà mà người dân Bắc Kạn dành làm quà cho người thân và du khách đến thăm quê mình. Măng ngâm ớt thường được dùng cho vào nước chấm và hay ăn kèm với những món ăn chóng ngấy như chân giò hầm, khau nhục…
Gạo bao thai Chợ Đồn
Không chỉ nổi tiếng với những di tích lịch sử và là quê hương giàu truyền thống cách mạng, Chợ Đồn còn được biết đến là một nơi có nhiều loại đặc sản quý do chính người dân nơi đây sản xuất.
Nhờ những đặc điểm về khí hậu và chất đất riêng rất phù hợp với giống lúa “bao thai lùn”, sản phẩm gạo Bao thai Chợ Đồn đã trở thành một loại đặc sản mà thiên nhiên ưu ái ban tặng cho vùng đất chiến khu xưa.
Xôi Đăm Đeng
Xôi Đăm Đeng là món ăn đặc sắc của người dân miền núi phía Bắc từ bao đời nay. Xôi Đăm Đeng thường có trong những phiên chợ, ngày cưới hay dịp lễ, tết của người dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt là vào dịp tết thanh minh (3/3 âm lịch).
Món xôi này rất độc đáo vì được nấu từ gạo nếp nương và tất cả màu sắc của xôi không tạo ra bằng phẩm màu mà bằng hương sắc của cây cỏ. Người ta lấy lá của cây cẩm và vài loại lá khác đun lên, chắt nước ra, ngâm gạo nếp vào khoảng vài giờ rồi mang đồ trên chõ gỗ. Nước ngâm gạo phải nóng già thì khi chín xôi mới có độ dẻo. Xôi Đăm Đeng có một mùi thơm đặc trưng của cây cỏ, không thể lẫn với bất cứ loại xôi nào khác. Hạt xôi bóng đẹp nhưng không ướt, khi nguội hạt xôi se lại nhưng vẫn mềm, dẻo và thơm. Xôi Đăm Đeng thường được ăn với muối vừng hoặc ruốc tùy theo khẩu vị từng người. Người dân Bắc Kạn quan niệm rằng ăn xôi này sẽ mang lại nhiều may mắn và tốt lành.
Bánh Coóc Mò
Coóc mò cũng là một loại bánh được bà con các dân tộc Bắc Kạn hay làm hơn cả. Mới nhìn qua nhiều người nhầm là bánh gio vì hình thức bánh coóc mò cũng giống như vậy . Bánh cũng được gói theo hình chóp nhưng lá gói bánh lại là lá chuối.
Bánh coóc mò ăn có vị đậm và thơm bởi được làm từ gạo nếp nương và lạc nhân đỏ . Ăn không ngán vì dễ ăn và mùi vị hợp với nhiều người, bánh coóc mò rất hợp với những bữa điểm tâm buổi sáng. Bóc chiếc bánh xanh rền, ăn dẻo, thơm bạn mới thấy hết ý nghĩa của món bánh này. Nếu ghé Bắc Kạn bạn đừng quên thưởng thức món ăn giản dị mà hấp dẫn này nhé.
Mứt mận
Món mứt mận ở Bắc Kạn được người dân coi là đặc sản vì nó có những hương vị đặc trưng riêng và rất hấp dẫn. Hầu như người dân Bắc Kạn đi đâu xa đều mang món mứt mận để làm quà biếu và giới thiệu sản phẩm của quê hương mình.
Chế biến mứt mận rất cầu kỳ, trước tiên phải chọn loại mận chát và đắng, rồi sau đó phải khía từng quả mận để khi nấu mận ngấm đường. Khi đã khía mận thật mỏng ngâm xuống chậu nước lã, những cánh mận được khía nở ra như một bông hoa rừng thật đẹp. Muốn mận vừa dai vừa mềm và không bị chát thì cứ 5 kg mận ngâm 1 lạng vôi và nước lã trong 3 ngày. Cuối cùng cho mận vào nồi nấu với đường, nếu 1 kg mận thì phải cần 3 kg đường phên cát xanh. Nấu mứt mận cũng rất lâu 5 tiếng đồng hồ mới xong một mẻ mận. Sau đó đem đi phơi ngoài nắng tầm 4 nắng là đóng mận cất vào túi
Quýt Quang Thuận
Quýt Quang Thuận là một đặc sản của tỉnh miền núi Bắc Kạn, tuy chưa phải là thứ quả nổi tiếng được nhiều người biết đến như bưởi Năm Roi, nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Lục Ngạn…. nhưng nó lại mang hương vị đặc trưng riêng của núi rừng Đông Bắc.
Quýt có mùi thơm đặc trưng, ngọt, mát và pha lẫn vị hơi chua. Nếm quýt Quang Thuận bạn sẽ cảm nhận được vị ngọt đậm của núi rừng, sự mát thanh của suối nguồn tinh khiết, hương thơm nồng nàn của khí trời mùa xuân và cả vị mặn mòi của mồ hôi người trồng quýt.
Tôm cá chua
Những khúc cá to và tôm được trộn mẻ, bột thính, giềng và các gia vị đặc biệt khác rồi bịt kín lại đem ủ, sau một thời gian người dân lấy ra nấu ăn. Tôm cá lúc này ăn rất thơm, mềm có vị chua ngọt riêng. Điều đặc biệt do ủ lâu, ngay cả xương cá cũng rất mềm nên khi nấu ăn người ta có thể ăn cả xương và thịt không phải bỏ thứ gì. Ngày nay, nghề làm tôm chua, cá chua đang có xu hướng phát triển ở vùng hồ Ba Bể. Dọc theo các triền sông, suối người dân lấy tôm, cá về chế biến. Phải là tôm sông, cá sông mới cho hương vị đậm đà, riêng biệt với các vùng quê khác. Khi đánh bắt được các mẻ tôm sông, cá sông, người dân lựa chọn những con còn nguyên vẹn, đều nhau, cá thì cắt khúc rồi làm theo quy trình trên và ủ kín. Sau một thời gian, khi tôm cá đã ngấm đủ gia vị, lên men, bỏ tôm chua, cá chua từ hũ ra, chắc hẳn không ai quên được hương vị đậm đà, mùi thơm của giềng, ngọt mềm chua dìu dịu, ăn cùng với cơm nấu bằng gạo nương thì người khó tính nhất cũng phải gật gù và thốt lên ăn không biết chán. Thường thì, người ta chưng tôm chua, cá chua lên với thịt băm và trộn thêm giềng giã nhỏ chưng lên nhưng nên nhớ rằng nếu cho nhiều thịt băm và giềng sẽ mất đi hương vị riêng của tôm chua, cá chua vùng hồ Ba Bể.
Bánh Khẩu Thuy
Vào mỗi dịp lễ hội Lồng Tồng, thứ bánh không thể thiếu để dâng lên trời đất, để cúng thần linh cầu mùa màng bội thu, mưa thuận gió hoà là bánh Khẩu Thuy. Bánh tròn như quả trứng chim cút, vàng óng vì được tẩm mật mía, ăn vừa ngọt, vừa thơm, giòn tan nơi đầu lưỡi với hương vị mang bản sắc riêng của người Tày.
Để làm được bánh ngon phải cần nhiều nguyên liệu, nhiều công đoạn và khá cầu kỳ. Họ lấy bèo tây đun lên lấy nước, lại lấy cây vông hoa đỏ đốt lên lấy tro. Dùng nước bèo tây và nước tro để ngâm gạo nếp. Ngâm cho gạo nở to rồi đem lên đồ. Một thứ không thể thiếu được khi làm Khẩu Thuy là khoai sọ. Khoai sọ cũng đồ lên cùng với gạo nếp, cho thêm một chút rượu vào. Bèo tây, tro vông để làm bánh nở được to, khoai sọ để bánh lên màu, rượu để bánh có vị thơm.
Sau khi đồ chín, cho tất cả vào giã. Giã Khẩu Thuy cũng như giã bánh dày. Giã đến khi cối bánh lên bọt trắng, giơ chày quá đầu người không thấy bột bánh dính đầu chày nữa thì mới được. Để giã được một cối bánh không phải đơn giản. Vậy nên, các cụ ngày xưa muốn thử sức con rể thì việc đầu tiên là cho giã một cối bánh dày. Giã càng nhanh, càng nhuyễn thì càng “đạt yêu cầu”. Giã bánh xong, đổ ra một cái mẹt to và cán cho thật mỏng. Chờ cho bánh nguội bớt, siu mặt thì đem cắt từng miếng hình quả trám hoặc hình vuông. Đem phơi khô tất cả để chờ đến tết hoặc ngày hội mới đem rang phồng lên. Rang Khẩu Thuy cho phồng hết cỡ để khi ăn không bị lợn cợn.
Công đoạn cuối cùng để hoàn thành món bánh này là tẩm đường cho bánh. Đun sôi mật mía, trút bánh đã rán phồng vào đảo đều, sau đó, đổ ra mẹt đã tra sẵn một chút bột gạo rang. Để giữ được lâu, người ta cho vào túi nilông buộc kín sẽ khiến bánh không bị ỉu mà vẫn giữ được hương vị.
Chè san tuyết Bằng Phúc
Nằm ở độ cao 1.200m so với mực nước biển, xã Bằng Phúc, huyện Chợ Đồn khí hậu quanh năm mát mẻ là điệu kiện thuận lợi để giống chè shan tuyết ở đây phát triển. Bằng Phúc hiện còn trên 1.000 gốc chè cổ thụ trên 100 năm tuổi đang cho thu hoạch, trong đó có cây hơn 300 năm tuổi, cao hàng chục mét, tán rộng che kín vài chục mét vuông. Khác với các giống chè khác, búp chè shan tuyết to có phủ một lớp lông tơ trắng trông như những bông hoa tuyết. Khi sao khô búp chè có màu trắng bạc, pha nước sóng sánh vàng.