Cẩm nang Review Du Lịch Thái Nguyên mới nhất
31/07/2023
Thái Nguyên là trung tâm chính trị, kinh tế của khu vực Việt Bắc nói riêng và vùng trung du miền núi Đông Bắc nói chung. Không chỉ vậy thiên nhiên đã hào phóng ban tặng cho Thái Nguyên vô số những thắng cảnh đẹp, hùng vĩ với nhiều địa danh du lịch nổi tiếng, hấp dẫn như: Suối Mỏ Gà, hang Phượng Hoàng, hồ Núi Cốc, khu di tích lịch sử ATK Định Hóa… Bên cạnh đó, còn có các di tích kiến trúc nghệ thuật chùa như: Khu Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam, Đền Đuổm, chùa Hang, chùa Phủ Liễn, đền Xương
1 . Du lịch Thái Nguyên vào thời gian nào?
Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5.
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhưng do địa hình nên khí hậu Thái Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.
Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía nam huyện Võ Nhai.
Vùng ấm gồm: Thành phố Thái Nguyên, thành phố Sông Công, thị xã Phổ Yên và các huyện Đồng Hỷ, Phú Bình, Đại Từ.
Đặc sản của Thái Nguyên là những đồi chè xanh mướt, chính vì vậy các bạn không thể bỏ lỡ đi du lịch Thái Nguyên vào mùa hè, dịp này thường là thời điểm thu hoạch và hái chè nên sẽ rất tuyệt vời để bạn tìm hiểu về một trong những loại chè ngon của Việt Nam cũng như có những khoảnh khắc “ảo diệu” bên đồi chè.
Nếu thích du lịch lễ hội, các bạn đừng bỏ lờ thời điểm tháng Giêng (âm lịch) hàng năm là lúc mà rất nhiều các lễ hội nổi tiếng diễn ra như: lễ hội đền Đuổm, Lồng Tồng, Hội Hích, hội Chùa Hang, hội Núi Văn – Núi Võ…
2 . Hướng dẫn đi tới Thái Nguyên
Thái Nguyên không quá xa Hà Nội nên các bạn có thể khám phá du lịch Thái Nguyên bằng phương tiện xe máy
Phương tiện công cộng
Cách Hà Nội chỉ chưa tới 100km, Thái Nguyên với hạ tầng giao thông đầy đủ đường bộ, đường sắt và đường sông. Thái Nguyên có hệ thống đường bộ nối liền với các tỉnh khác của vùng Đông Bắc, quốc lộ 3 là tuyến đường huyết mạch nối Thái Nguyên với Thủ đô Hà Nội, với các tỉnh Cao Bằng Bắc Kạn chạy dọc suốt 85km chiều dài của tỉnh. Từ Thái Nguyên có thể đi theo quốc lộ 24 đi Tuyên Quang, Hà Giang hoặc các tỉnh khác của vùng Tây Bắc. Tuyến đường sắt Hà Nội – Thái Nguyên nối dài đến mỏ than Núi Hồng rồi ra Quảng Ninh để phục vụ nhu cầu vận chuyển hành khách. Nếu không muốn đi xe máy từ Hà Nội, các bạn có thể đi xe khách hoặc tàu hỏa lên Thái Nguyên, tiếp đó các bạn thuê xe máy ở thành phố Thái Nguyên. Tuy nhiên, nếu mang theo xe máy từ nhà, các bạn có thể kết hợp lại để làm một vòng cung các tỉnh Đông Bắc như Hà Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn…
Đường bộ
Từ Hà Nội, các bạn có thể đi tới Thái Nguyên theo hướng Quốc lộ 3 (đường Nam Thăng Long qua sân bay Nội Bài). Các tuyến xe khách đi Thái Nguyên xuất phát từ bến xe Mỹ Đình hoặc bến xe Nam Thăng Long.
Đường sắt
Hàng ngày từ ga Hà Nội có duy nhất một chuyến tàu xuất phát đi Thái Nguyên lúc 16h20 (Tàu QT1) và sau khoảng 2 tiếng sẽ tới ga Thái Nguyên.
Phương tiện cá nhân
Nếu sử dụng xe máy, các bạn từ Hà Nội đi sang phía Đông Anh, Sóc Sơn rồi đi lên Thái Nguyên theo hướng QL3, nếu đi ô tô các bạn có thể lựa chọn tuyến cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên. Quãng đường từ Hà Nội lên trung tâm Tp Thái Nguyên khoảng 80km, nếu đi cao tốc chỉ mất khoảng 1h là tới nơi.
3 . Lưu trú khi du lịch Thái Nguyên
Khách sạn nhà nghỉ tại Thái Nguyên
Thái Nguyên là một điểm đến của du lịch văn hóa về nguồn với những di tích lịch sử gắn liền với những cuộc kháng chiến trường kỳ trong công cuộc giải phóng dân tộc. Không chỉ vậy, địa phương còn giàu tiềm năng về phát triển du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng nên hệ thống cơ sở lưu trú tại tỉnh dần được đầu tư để phục vụ lượng du khách đến du lịch Thái Nguyên ngày càng tăng.
Homestay ở Thái Nguyên
Ngoài các dịch vụ lưu trú phổ biến như khách sạn, nhà nghỉ, ở Thái Nguyên cũng bắt đầu xuất hiện một số mô hình lưu trú homestay, đây là hình thức lưu trú mới có sức phát triển mạnh và được rất nhiều các bạn trẻ yêu du lịch quan tâm.
4 . Các địa điểm du lịch ở Thái Nguyên
Hồ Núi Cốc
Hồ ở phía nam huyện Đại Từ, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 15km về phía tây, là một thắng cảnh thiên nhiên gắn liền với câu chuyện tình huyền thoại về chàng Cốc nàng Công.
Trong cái mênh mang của mây trời, sông nước; trong cái ngút ngàn mướt xanh của những vạt rừng in bóng mặt hồ; rồi 89 hòn đảo mang những cái tên thật khêu gợi: Đảo Tiên Nằm, đảo Núi Cái, đảo Cò, đảo Dê, đảo Khỉ… và xa xa phía tây, dãy Tam Đảo sừng sững như một bức trường thành lam sẫm… thật khó dùng lời để tả hết vẻ đẹp, sự quyến rũ của hồ Núi Cốc – hồ huyền thoại. Đến với hồ Núi Cốc là đến với một thắng cảnh “sơn thủy hữu tình”; đến với không khí trong lành, mát mẻ; để du ngoạn trên hồ và đắm mình trong câu chuyện tình chung thủy ngàn đời trở thành huyền thoại của vùng sơn cước.
Hồ Núi Cốc nguyên là một đoạn của sông Công, một trong các chi lưu của sông Cầu chảy vòng quanh một ngọn núi đất có tên là núi Cốc. Đập Núi Cốc được khởi công xây dựng đầu năm 1972 nhưng do Không quân Mỹ mở chiến dịch Linebacker I đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam nên công trình bị đình hoãn đến đầu năm 1973 mới tái khởi động. Tháng 10 năm 1978, một trận lũ lịch sử trên sông Công có lưu lượng 3.000 mét khối/giây, gấp gần 4 lần lưu lượng xả thiết kế của cửa xả chính và làm vỡ hai vai đập. Công trình Đập Núi Cốc hoàn thành phần đầu mối vào năm 1979 và hoàn thành toàn bộ vào năm 1982.
Khu di tích ATK Định Hóa
An toàn khu Trung ương Định Hoá nằm ở trung tâm căn cứ địa Việt Bắc, nơi có địa thế hiểm trở “tiến có thể đánh, lui có thể giữ”, có đầy đủ yếu tố địa lợi, nhân hoà, đã trở thành địa bàn hoạt động an toàn của các cơ quan đầu não kháng chiến. Khu căn cứ này đặt tại huyện Định Hóa nằm ở cực bắc tỉnh Thái Nguyên.
Đồi Khau Tý
Đồi Khau Tý nơi đặt trụ sở đầu tiên của Bác Hồ tại ATK Định Hóa, thuộc xóm Nà Tra, xã Điềm Mặc. Bác đã ở và làm việc tại đây đến giữa tháng 10/1947.
Đồi Phong Tướng
Đồi Nà Lọm bây giờ còn được gọi là đồi Phong Tướng, cách Tỉn Keo khoảng 500m về phía Đông, bên phải đường ô tô từ trung tâm xã Phú Đình vào đèo De. Cũng tại đây, ngày 28/5/1948 Bác đã chủ trì lễ phong quần hàm Đại tướng cho Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia Việt Nam Võ Nguyên Giáp.
Di tích Tỉn Keo
Tỉn Keo nghĩa tiếng Tày là chân đèo, Đồi Tỉn Keo nằm ở ngay chân đèo De, thuộc xóm Tỉn Keo xã Phú Đình, trung tâm của An Toàn Khu. Ngày 6/12/1954 quyết định thông qua phương án tác chiến mùa Xuân năm 1954 đã được thực hiện tại đây cùng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Tỉn Keo hiện là một trong những di tích quan trọng trong hệ thống các di tích lịch sử kháng chiến của ATK Định Hóa.
Thác Khuôn Tát
Thác Khuôn Tát người dân địa phương còn gọi là thác Bảy Tầng, thuộc xóm Tỉn Keo, xã Phú Đình. Thác ở không xa các di tích Tỉn Keo, đồi Phong Tướng, lán Khuôn Tát, nhà trưng bày ATK Định Hóa, nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại ATK Định Hóa.
Nơi đầu nguồn suối Tỉn Keo, giữa đỉnh núi nhiều cây cổ thụ, một dòng nước ào ào đổ xuống các bậc đá tạo nên dòng thác bạc bảy tầng. Tầng thác dưới cùng khoảng 12m, đổ vào một vũng lớn, mỗi chiều gần 10m, sâu tới 2m, nước trong vắt tạo ra một nơi bơi lội lí tưởng. Ngay giữa chiều hè, chỉ cần vào cách chân thác chừng 50m, ta đã có cảm giác mát lạnh. Thác Khuôn Tát, khu vực đầu nguồn suối Tỉn Keo thật là nơi lý tưởng để du ngoạn, bơi lội, cắm trại, dã ngoại.
Đồi chè Tân Cương
Với 20 ngàn ha chè chuyên canh trên toàn tỉnh thì có tới 17 ngàn ha là chè đặc sản. Những đồi chè ngút ngàn xanh mướt của Thái Nguyên hôm nay không đơn thuần chỉ là sản phẩm thuần nông của vùng đồi núi Trung du Bắc bộ, mà đang dần từng bước trở thành sản phẩm du lịch, được du khách trong và ngoài nước yêu thích. Bạn không chỉ được ngắm nhìn thỏa thích trong hương trà thơm quyến rũ mà còn được trải nghiệm khi hóa thân thành những người trồng chè thoăn thoắt hái những búp chè xanh non cho đến khi nặng cái gùi sau lưng, bạn sẽ được mang về nơi chế biến để thử làm một nghệ nhân chế biến trà: từ làm héo, vò, sao chè, rồi tự tay mình làm ra những búp chè quăn tít, ngào ngạt hương. Bạn sẽ cảm hết được cái gian khó lao động từ những búp chè bé tí và vị chát ngọt ngào của chúng, sâu lắng biết nhường nào. Thái Nguyên có tới chín vùng trà, mỗi vùng đều có những nét đặc trưng riêng, từ trồng, thu hoạch đến chế biến và đặc biệt là hương vị trong phẩm cấp trà của mỗi vùng đều khác nhau…
Nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 10km về phía Tây Nam, Tân Cương được thiên nhiên ban tặng khung cảnh thiên nhiên thơ mộng. Những gốc chè được trồng trên những ngọn đồi thoai thoải, hướng về phía mặt trời mọc để có thể hấp thụ những tinh hoa của khí trời. Nhìn từ xa, những đồi chè như những con thằn lằn khổng lồ, hiền lành đang phơi mình dưới cái nắng vàng của Bắc Bộ. Có lẽ vì thế mà những ngọn đồi ở đây được người dân đặt tên là đồi Thằn Lằn.
Hồ Suối Lạnh
Nằm dưới chân núi Hàm Lợn của dãy núi Tam Đảo, hồ Suối Lạnh thuộc xã Thành Công, huyện Phổ Yên, tiếp giáp với Sóc Sơn, Hà Nội. Hồ với diện tích gần 50 ha, có suối nước trong, có đồi núi, rừng cây tạo cảnh quan non xanh, rất phù hợp để phát triển du lịch nghỉ dưỡng.
Hồ Vai Miễu
Nằm dưới chân dãy núi Tam Đảo với diện tích 40 ha, hồ có nhiều đảo đẹp và cảnh quan thiên nhiên hoang sơ. Hồ cũng nằm gần khu di tích lịch sử Núi Văn – Núi Võ nên khá phù hợp với các hoạt động du lịch cắm trại nghỉ dưỡng.
Hồ Ghềnh Chè
Hồ Ghềnh Chè thuộc xã Bình Sơn, Tp Sông Công có diện tích 40 ha, được bao quanh bởi những cánh rừng bạch đàn, rừng mỡ bạt ngàn. Do cảnh quan đẹp, không khí trong lành, lại không xa trung tâm Sông Công và Thái Nguyên nên gần đây hồ Ghềnh Chè thu hút được nhiều khách du lịch đến câu cá.
Thác Nặm Rứt
Thác Nặm Rứt trong tiếng Tày có nghĩa là thác Mưa Rơi. Thác ở cách trung tâm Tp Thái Nguyên khoảng 35km và nằm trên đường từ La Hiên (km 18 QL 1B) vào khu dích khảo cổ học Thần Sa.
Vào mùa mưa, giữa vùng rừng núi non hùng vĩ, trên đỉnh một núi đá vôi có nhiều cây rừng, những dòng nước trắng xóa đổ xuống dòng sông Nghinh Tường tạo nên thác lớn. Vào mùa khô, nước chỉ đủ để ngấm qua những mảng rêu trên vách đá, rơi xuống dòng sông xanh tạo sự lấp lánh khắp mặt sông dưới ánh nắng vàng.
Hang Phượng Hoàng – Suối Mỏ Gà
Nằm bên trái QL 1B Thái Nguyên – Lạng Sơn (km 42) trên một núi đá lớn của dãy Phượng Hoàng thuộc xã Phú Thượng huyện Võ Nhai.
Nằm ở độ cao khoảng 500m so với chân núi, Phượng Hoàng là một hang động casto rộng lớn với vẻ đẹp kỳ lạ. Trong hang không khí trong lành, mát rượi. Đáy hang có nước trong veo, lại có những bờ cát trắng mịn ven bờ nước. Trong lòng hàng, rất nhiều những nhũ đá được thiên nhiên tạo thành những cột chống trời, mẹ bồng con, vũ nữ, voi chầu… rất đẹp. Chính giữa lòng hang là khối nhũ đá khổng lồ hình chim phượng hoàng trong tư thế giương cánh oai hùng. Khối nhũ này cũng chính là duyên cớ để hang có tên là Phượng Hoàng và được thêu dệt nên câu chuyện cổ tích về mối tình chung thủy hóa đá của đôi chim Phượng Hoàng thủa xưa.
Ngay chân núi Phượng Hoàng là dòng suối Mỏ Gà chảy giữa lòng hang và trong vắt, mát lạnh. Do hang khá rộng và sâu, cửa hang nước đổ thành thác nước tung bọt trắng xóa giữa những khối đá lớn rồi đổ xuống cánh đồng Phú Thượng tạo nên cảnh quan sơn thủy hữu tình.
Suối Cửa Tử
Suối Cửa Tử nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 45 km, thuộc xã Hoàng Nông, huyện Đại Từ. Xã nằm ở phía tây của huyện và thuộc vùng núi Tam Đảo, tiếp giáp với đỉnh cao nhất của dãy núi này (1.590 m). Đây cũng là xã ngã ba ranh giới giữa ba tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc và Tuyên Quang. Một dòng suối chảy từ dãy Tam Đảo xuống, dọc theo chiều dài của xã rồi đổ vào sông Công, đó là Cửa Tử.
Xã Hoàng Nông có địa hình tương đối phức tạp. Đồi núi có độ dốc lớn. Xen kẽ đồi núi là những dải đồng bằng nhỏ hẹp với cánh đồng rau màu, và thửa ruộng bậc thang đẹp mắt nằm ngay trung tâm của xã, cùng với đó là hệ thống ao, hồ, đập chắn giữ nước nằm rải rác ở các xó.
Cửa Tử thực chất là một con suối trải dài, hấp dẫn những bạn trẻ ưa khám phá bởi sự hoang sơ, thất thường của dòng suối. Người dân bản địa sống gần con suối này cho biết, sở dĩ gọi là Cửa Tử bởi vì ở đây chỉ có duy nhất một đường lên xuống. Nước suối lại cao thấp thất thường theo lượng mưa, nên ít người có thể khám phá hết con suối. Nằm lọt thỏm giữa những ngọn núi cao vút, dòng suối như một con rắn uốn mình trườn đi.
Hiện nay Cửa Tử thu hút được rất nhiều bạn trẻ đến quanh năm, vào mùa hè các hoạt động lội suối, chinh phục thác, bơi lội là những hoạt động phổ biến. Vào mùa đông, Cửa Tử cũng có một biển mây đang vẫy gọi các bạn thích leo núi.
Chùa Hang
Chùa Hang nằm ngay trung tâm thị trấn Chùa Hang, Đồng Hỷ, cách trung tâm Tp Thái Nguyên khoảng 2km.
Chùa Hang còn được gọi là “Tiên Lữ Phật Động”, tên chữ là “Kim Sơn Tự”. Di tích thắng cảnh Chùa Hang có ba ngọn núi đá lớn, độc lập trên vùng đất bằng phẳng… Ngọn núi đứng giữa có tên là “Huyền Vũ” cao to vững trãi, hai bên là hai ngọn “Thanh Long – Bạch Hổ” vươn cao uy nghi, ba ngọn kết nối nhau bởi dải yên ngựa chừng 1000m có diện tích chân núi chừng 2,7ha.
Núi Chùa Hang xưa gọi là núi đá Hóa Trung (núi Long Tuyền), động Chùa Hang còn gọi là động Tiên Lữ, có nhiều nhũ đá đẹp, trong động thờ Phật. Trên vách đá của động hiện có câu đối cổ bằng chữ Hán
Phong cảnh thiên nhiên đẹp vào bậc nhất
Danh lam do con người tạo cũng không gì sánh được
Động Linh Sơn
Thắng cảnh Linh Sơn còn có tên Linh Sơn động. Động Linh Sơn thuộc xã Linh Nham, huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Động nằm trong núi Hột, ngọn núi đá vôi đứng tách hẳn các bản làng, khu dân cư của huyện Đồng Hỷ.
Linh Sơn động có lòng hang rất rộng, có thể chứa được cả ngàn người, khí hậu mát mẻ, thiên nhiên trong lành. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, động đã là nơi đóng quân, để kho tàng của một số cơ quan đơn vị bộ đội của tỉnh, liên khu phục vụ kháng chiến.
Động gồm hai hang đá tự nhiên. Hang Thiên rộng hơn 360 m2, nền hang bằng phẳng và có các bậc lên như bậc tam cấp, tại đây có các bệ thờ Phật bằng đá. Động có nhiều cảnh quan tự nhiên kỳ thú do nhũ đá tạo thành, như những chùm san hô, hình voi chầu, hổ phục, kỳ lân, sư tử… Cùng nhiều cảnh đẹp mê hồn như động Thuỷ Tiên, buồng Tiên nữ và đặc biệt là đôi rồng vờn mây uốn lượn trong một thế giới huyền ảo của nhũ đá thiên nhiên. Cuối hang Thiên, về phía tây có đường đi lên đỉnh núi Hột và có đường thông xuống hang Địa. Hang Địa có diện tích hơn 480 m2, sâu và thấp hơn hang Thiên chừng 15 mét. Nền hang khá phẳng, rộng rãi, thấp dần, tạo thành những chiếu nghỉ rộng lớn. Nơi đây không gian tĩnh tại, thiên nhiên huyền ảo với những hình tượng đẹp được cấu tạo do nhũ đá như hình bút tháp, mẹ bồng con… Xưa kia, nhân dân địa phương đã từng dùng động làm chỗ thờ Phật. Trong động còn tượng phật Thích Ca bằng đồng, một số tượng phủ sơn son thiếp vàng, tượng đá tự nhiên trên các bệ bằng đá.
Hang Chùa
Nằm trong dãy núi đá vôi thuộc xã Văn Lăng, Đồng Hỷ, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 35km. Hang lớn và rất sâu, hiện tại mới khảo sát được đến độ sâu 700m, bên trong có vô vàn nhũ đá tạo nên vô số hình thù kỳ lạ và rất đẹp, có những nhũ đá cao lên tới 20m. Hang hiện tại vẫn còn nguyên sơ và hầu như chưa được khai thác du lịch.
Đền Đuổm – Núi Đuổm
Núi Đuổm, xưa gọi là Điểm Sơn, nằm kề quốc lộ 3, cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 24 km về phía Tây – Bắc. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí xếp Điểm Sơn là danh thắng của đất Thái Nguyên và tả: “ Điểm Sơn… phía trước núi có phiến đá chỗ lên chỗ xuống như con rồng ngóc đầu, phía dưới có hai phiến đá lớn như hình hai con voi chầu vào. Đỉnh núi và sườn núi đều có đền”.
Từ xa nhìn vào, Núi Đuổm với sáu ngọn núi đá tựa sáu đầu rồng. Ngọn ở phía cực Đông như mọc ra một “tháp đá” chọc thẳng lên trời xanh. Các vách đá thẳng đứng, rêu phong cổ kính. Quanh núi, nhiều cây cổ thụ đường kính gốc hơn một mét
Dưới chân núi, phía Đông Bắc, có đền thờ nổi tiếng linh thiêng thờ danh nhân Dương Tự Minh – Thủ lĩnh phủ Phú Lương, Phò mã hai đời vua nhà Lý, có nhiều công lao bảo vệ vững chắc miền biên cương phía bắc quốc gia Đại Việt (đền Trung) và hai nàng công chúa Diên Bình và Thiều Dung vợ ông (đền Hạ), thân mẫu của ông (đền Thượng).
Thác Đát Đắng
Đát Đắng thuộc xã Phú Xuyên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Từ trung tâm thành phố Thái Nguyên theo quốc lộ 37 nối giữa Thái Nguyên và Tuyên Quang du khách mất khoảng một giờ đồng hồ đi xe máy đến xã Phú Xuyên rồi đi tiếp hơn 2 km đường mòn chạy tới gần chân đát. Sau khi gửi xe và bách bộ khoảng 2 km băng qua những con suối, những bãi đá lởm chởm, những ngọn đồi xanh cỏ, thác Đát Đắng hiện ra tầng tầng, lớp lớp chắc chắn sẽ không phụ công sức của những vị khách đam mê du lịch và khám phá
Đát Đắng khá xa đường quốc lộ, chính vì thế mà điểm hấp dẫn của nơi này chính là cảm giác được hòa mình vào thiên nhiên, được đắm chìm trong những cánh rừng nguyên sinh xanh mướt, trong một bầu không khí trong lành, mát mẻ, và những dòng thác tuôn chảy.
Suối Tiên
Suối Tiên thuộc xóm Tân Lập II, xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; cách trung tâm thành phố Thái Nguyên khoảng 30km về phía bắc. Từ trung tâm thành phố Thái nguyên theo quốc lộ 1B đến km số 7 rẽ trái đường đi Hòa Bình, qua địa phận xã Hòa Bình đến xã Văn Lăng, suối cách trung tâm xã 2km (có biển chỉ dẫn).
Trước đây suối có tên là Đát Khe Đậy nhưng sau này do khách du lịch đến đây ngày một nhiều, trước vẻ đẹp ngỡ ngàng, thiên tạo như vậy họ liên tưởng nơi đây có lẽ đã từng là điểm đến của các nàng tiên để du ngoạn và tắm mát nên đặt tên là Suối Tiên. Những người dân ở đây cũng không còn nhớ cái tên Suối Tiên này đã có từ lúc nào và dần đi vào tiềm thức của họ.
Du lịch tâm linh
Chùa Phù Liễn
Chùa Phù Liễn có diện tích khoảng 7000m2, chùa tọa lạc trên một quả đồi cao thóang đãng với nhiều cây xanh cổ thụ. Chùa gồm có nhà Tam Bảo, Điện mẫu, nhà thờ tổ và khu vườn tháp cổ, trước sân chùa có tượng phật Bà Quan âm linh diệu.
Trong Chùa có bức đại tự hoành tráng gắn bốn chữ vàng: “Linh sơn phúc địa” (có nghĩa là núi thiêng, đất lành).
Theo nội dung thần phả, làng Phù Liễn được thành lập từ thời Lý (có tên gọi là hương Phù Liễn), do đó chùa được mang tên là chùa Phù Liễn (còn có tên khác là “Phù Chân thiền tự” nghĩa là che chở, bảo vệ những điều chân chính).
Trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế (1884) và khởi nghĩa Thái Nguyên (1917), chùa Phù Liễn là nơi che chở, nuôi giấu một số nghĩa quân của Hoàng Hoa Thám và Lương Ngọc Quyến.
Chùa Đán
Chùa Đán cách trung tâm Tp Thái Nguyên 5 km về phía Tây, ở địa phận xóm Chùa, phường Thịnh Đán. Trước đây chùa Đán được xây bằng gạch đỏ, cột kèo bằng gỗ, lợp ngói vẩy, nhà Tam bảo của chùa rộng 5 gian, bên trong có một số tượng Phật, xung quanh chùa có trồng rất nhiều cây thông, đây là nơi các phật tử của làng Đán và các vùng lân cận đến để sinh hoạt tâm linh. Năm 1917, Vua Khải Định đã ban 2 sắc phong cho xã Thịnh Đán là: Được tôn thờ các vị tướng lĩnh có công với nước; hàng năm người dân được mở hội mùa xuân; hiện 2 sắc phong này đang được lưu giữ tại đền Hồ Sen.
Chùa Ha
Chùa Ha có tên chữ là Bà Ha tự, ở xã Nhã Lộng (nơi đặt lỵ sở huyện Tư Nông xưa), huyện Phú Bình. Chùa tọa lạc trên quả đồi thoải khoảng 2,5ha, địa thế đẹp, thoáng mát, bao quanh có nhiều cây cổ thụ tạo cho chùa thêm tĩnh mịch, cổ kính.
Là ngôi chùa cổ có niên đại sớm của tỉnh Thái Nguyên, lưu giữ được kiểm dáng kiến trúc cổ thời Lê thế kỷ XVIII. Chùa Ha có tổng diện tích xây dựng 735m2, kiến trúc chùa kiểu chữ công, với 7 gian tiền đường và 4 gian thượng điện, có khu nhà thờ tổ, thờ Mẫu nằm gọn trong khuôn viên khép kín. Kết cấu bộ vì kèo kiểu chồng rường, quá giang, kẻ chuyền. Tam quan chùa Ha có kiến trúc chồng diêm, 2 tầng khá độc đáo, tầng trên nhỏ hơn có tám mái lợp ngói mũi hài, có góc mái bằng gỗ tạo thành đầu đao nhọn, cong vút. Nội dung văn bia khắc trên 2 cột đá hình lục lăng tại thượng điện của chùa cho biết năm trùng tu chùa: “Hoàng triều Vĩnh Thịnh vạn vạn niên Thập nhị tuế tại Bính thân trong Xuân cốc nhật…” (ngày tốt, tháng 2, năm Bính Thân, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 12, triều Lê (1976)).
Trong chùa còn bức hoanh phi Phật tức tâm và 6 câu đối, trong đó có câu soạn vào năm Thành Thái nguyên niên (1889): “Nhị bách dư niên sơn khởi tự – Trùng tu thử nhật bút kham minh” (Có nghĩa: Ngôi chùa làm trên núi đá đã có hơn 200 năm, nay được tu sửa lại, tôi cầm bút viết câu đối này). Trong chùa còn lưu giữ được 40 pho tượng cổ đường bệ, uy nghi, chất liệu gỗ và đất phủ sơn son thếp vàng. Các pho tượng được tạc dáng tỷ mỉ, công phu, mang nét đẹp dân dã.
Bức cửa võng chạm khắc công phu với đề tài tứ quý và bài biểu khắc trên gỗ còn khá nguyên vẹn, có niên đại Hoàng triều Thành Thái Nguyên niên. Chùa Ha có 28 cột đá. Cột đá cao 1,6m, chu vi 0,9m; khoảng cách giữa các chân cột là 2,2m, cột cái với cột quân 2,4m. Tiêu biểu là 2 cột đá hình lục lăng có niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 12 – triều Lê (1716). Kỹ thuật đẽo gọt công phu đạt tới trình độ điêu khác đá tinh vi thế kỷ XVIII.
Đình Hộ Lệnh
Đình Hộ Lệnh thuộc xóm Trung, làng Hộ Lệnh, xã Điềm Thụy Phú Bình được xếp hạng di tích nghệ thuật cấp quốc gia, là niềm tự hào của nhân dân Điềm Thụy. Theo sử sách thì đình được xây dựng vào khoảng thế kỷ thứ XVIII dưới thời nhà Lê, thờ Anh hùng dân tộc Dương Tự Minh và các hậu thần.
Thời phong kiến đình là nơi phục vụ đời sống tinh thần của người dân, là trung tâm sinh hoạt làng xã, nơi cúng tế các vị thần Thành Hoàng làng, xử án, phạt vạ kẻ vi phạm lệ làng, thông báo các thông tin của Nhà nước phong kiến với nhân dân địa phương, là trung tâm để họp bàn việc nước…
Đình xây dựng theo kiểu chữ Đinh (T) trên một địa thế cao, nằm ở trung tâm làng. Đình thiết kế theo phong cách truyền thống dân tộc: 3 gian hai chái. Mái đình kết cấu bởi 8 bộ vì kèo liên kết bằng loại gỗ đinh. Các bộ vì kèo đều được trang trí đề tài tứ linh: Long, Ly, Quy Phượng.
Gian giữa đình nối liền với hậu cung treo bức hoành phi, hai bên có treo câu đối tạo nên bố cục cân xứng, đạt giá trị thẩm mỹ cao. Giữa tòa đình, phía trước nơi thờ cúng trang trí bức bình phong: Lưỡng long chầu nguyệt. Bên cạnh là hàng cột từ câu đầu xuống đều được sơn son thiếp vàng tạo nên sự ngăn cách gian giữa và hậu cung.
Kiến trúc xây dựng tường bằng các vật liệu cổ truyền có sức chịu lực lâu bền như: Gạch đá ong, gạch chỉ, ngói đỏ vẩy rồng, các tảng đá tốt được đục đẽo công phu dùng kê chân cột tạo cho tổng thể ngôi đình bề thế vững chắc.
Cách bài trí trong đình theo bố cục trang trọng, từ cửa đình vào gian giữa rồi tiếp nối với hậu cung. Từ cửa võng đình với nội thất được trang trí chạm nổi từng ô vuông có bức đại tự đề: Thánh Cung vạn tuế, điện thờ có sắc bàn, phía trước có hương án uy nghi đặt chiếc bát hương gốm Thổ Hà màu men da lươn được tạo dáng tỷ mỷ công phu. Chính điện thờ đặt tượng nổi chân dung đức Thánh nét mặt phương phi, tai dài, đầu đội mũ quan võ.
Khu di tích khảo cổ Thần Sa
Theo Quốc Lộ 1B di tích khảo cổ thuộc xã Thần Sa, huyện Võ Nhai cách thành phố Thái Nguyên 40 km về phía Bắc. Chính trong các hang động tại nơi này, từ thập kỷ 70 đến cuối thập kỷ 80, các nhà khảo cổ đã phát hiện và phân định được một nền văn hoá khảo cổ học mới-“Văn hoá Thần Sa”, có niên đại trên dưới 3 vạn năm, lần đầu tiên tìm được ở Đông Nam á, thu hút sự chú ý của đông đảo các nhà khoa học trong nước và thế giới.
Hang Phiêng Tung (Miệng Hổ)
Hang Phiêng Tung (Miệng Hổ) ở sườn đông núi Mèo, có độ cao hơn 50 mét, phải bám vào cành cây, dây leo, vách đá mới lên được. Hang cao khoảng 7 mét, rộng 10 mét, sâu 20 mét, có 2 tầng; tầng trên hẹp, không chứa di vật khảo cổ; tại tầng dưới, các nhà khảo cổ học đã thu được 659 hiện vật đá chủ yếu là các mảnh tước nhỏ có vết tu chỉnh dùng làm công cụ mũi nhọn và công cụ nạo cắt.
Mái đá Ngườm
Mái Đá Ngườm là một di chỉ quan trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa nằm trên sườn dãy núi Ngườm thuộc bản Trung Sơn, xã Thần Sa, huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên. Mái Đá Ngườm là một di tích khảo cổ học nổi tiếng đã được xếp hạng di tích cấp quốc gia
Đây là một mái đá cao chừng 30m, rộng 60m, cửa hang nằm ở hướng bắc. Hố khai quật di chỉ Ngườm cho thấy có 4 địa tầng văn hóa khảo cổ. Những di vật đá đặc trưng của các nền văn hóa Bắc Sơn, Hòa Bình, Sơn Vi nằm ở tầng 1, tầng 2… ở tầng thứ 3 là thuần các công cụ đặc trưng của Ngườm. Và ở tầng văn hóa thứ 4 là hàng vạn công cụ đá kiểu Phiêng Tung và Ngườm. Những công cụ mũi nhọn, công cụ nạo và kỹ thuật gia công lần thứ 2 giống như công cụ và kỹ thuật điển hình của văn hóa Mút-xchi-ê (Moustér), nền văn hóa tiêu biểu cho trung kỳ Thời đại đá cũ. Từ những năm 1980, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra dấu tích của người Việt cổ tại khu vực Mái Đá Ngườm. Đầu năm 2011, các nhà khoa học đã tìm được một chiếc răng voi hóa thạch, được cho là răng voi châu Á tại khu vực sông Thần Sa đoạn chảy qua di chỉ mái đá Ngườm. Niên đại của răng voi có tuổi từ 30.000 – 50.000 năm. Các nhà khảo cổ cho rằng, loài voi này sống cùng thời với bầy người nguyên thủy, chủ nhân của văn hóa Ngườm nổi tiếng.
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam
Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam là một thiết chế văn hoá được xây dựng từ năm 1960, nằm giữa trung tâm thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, cách thủ đô Hà Nội hơn 80 km về phía Bắc. Là một trong 7 bảo tàng quốc gia của Việt Nam.
Thời kỳ đầu, Bảo tàng văn hoá các dân tộc Việt Nam với tên gọi là Bảo tàng Việt Bắc với chức năng nhiệm vụ ban đầu là nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống lịch sử văn hoá, lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân các dân tộc khu Việt Bắc. Năm 1976. Khu tự trị Việt Bắc giải thể, Bảo tàng Việt Bắc chuyển giao về trực thuộc Bộ Văn hoá Thông tin quản lý. Đây là giai đoạn chuyển hướng nội dung hoạt động từ Bảo tàng tổng hợp sang Bảo tàng chuyên ngành về Văn hoá dân tộc. Ngày 31/ 3/ 1990 Bộ trưởng Bộ Văn hoá đã phê duyệt đổi tên Bảo tàng Việt Bắc thành Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam. Một Bảo tàng trung ương đóng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam không chỉ là một công trình kiến trúc to, đẹp mà còn là một trung tâm văn hoá lớn với chức năng nhiệm vụ: Nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền và phát huy vốn di sản văn hoá truyền thống của các dân tộc Việt Nam trên phạm vi cả nước.
Hiện nay hệ thống trưng bày của Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam đã hoàn chỉnh với hệ thống 5 phòng trưng bày được xây dựng trên cơ sở nhóm ngôn ngữ kết hợp với văn hoá vùng, giới thiệu bản sắc văn hoá 54 tộc người gắn với cảnh quan môi sinh từng vùng cư trú. Bao gồm một gian long trọng và hệ thống 5 phòng trưng bày.
Phòng số 1: Trưng bày các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt – Mường (Việt, Mường, Thổ, Chứt)
Phòng số 2: Trưng bày các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y)
Phòng số 3: Trưng bày văn hóa các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ H’mông – Dao (H’mông, Dao, Pà Thẻn), nhóm ngôn ngữ Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và nhóm ngôn ngữ Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La).
Phòng số 4: Trưng bày văn hóa 21 tộc người nhóm ngôn ngữ Môn Khơ mer (Ba Na, Brâu, Bru – Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, H’rê, Kháng, Khơ mer, Khơ Mú, Mạ, Mảng, Mnông, Ơ Đu, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng).
Phòng số 5: Trưng bày văn hóa các tộc người nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và nhóm ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu).
5 . Ẩm thực và các món ăn ngon ở Thái Nguyên
Món ăn ngon ở Thái Nguyên
Canh gà nấu gừng
Gà ta chặt miếng, ướp với gừng đập dập, lá gừng non thái nhỏ, mẻ, một ít rượu trắng, muối, bột ngọt. Đổ thịt gà đã ướp vào chảo gang xào chín thì cho bát nước và ít nấm hương, đậy nắp đun sôi thêm vài phút là được.
Bát canh gà thơm lừng, hương vị đặc biệt, dễ ăn và chế biến. Đây cũng là món ăn dân dã và thường được đãi khách của người Tày.
Cơm lam
Món ăn khá phổ biến của đồng bào vùng cao. Đi làm nương hay vào rừng người ta đều đốt cơm lam. Gạo nếp nương ngâm kỹ, đổ vào những ống tre tươi bánh tẻ rồi nút lá dong tươi, dựng nướng trong đống lửa. Khi vỏ ống tre cháy xém có mùi thơm nếp hương tỏa lan là cơm lam đã chín. Chờ ống cơm lam bớt nóng, dùng dao sắc vót dần lớp ngoài ống tre sao cho vẫn giữ được lớp màng tre non. Cơm lam chín dẻo, thơm lừng ăn với muối lạc đảm bảo các bạn sẽ khó mà quên.
Xôi ngũ sắc
Gạo nếp cái ngâm kỹ trong nước, màu vàng làm từ nghệ tươi, các màu tím đỏ làm từ lá cây cơm đỏ cơm đen, tất cả trộn vào nhau đem đồ trên chõ cho chín. Xôi ngũ sắc trông rất đẹp và hấp dẫn. Xôi này thường được người Tày vùng Định Hóa làm trong các dịp lễ tết.
Nham
Là đặc sản ẩm thực nổi tiếng của xã Hà Châu, Phú Bình và thường được làm vào mùa trám chín (khoảng cuối tháng 7, đầu tháng 8 âm lịch) Món nham được làm từ 14 loại thực phẩm, gia vị dân dã như: trắm đen, cá cháy hoặc cá mè trắng, củ chuối tiêu non, vừng, lạc, thịt ba chỉ, khế chua, lá gừng, lá sung, lá nhội, lá đinh lăng, cùi dừa, tương, dấm thanh…
Cá cháy bắt từ sông, rửa sạch lọc thịt, bỏ da rồi dùng giấy bản thấm kỹ. Nếu làm nham cá sống thì thịt cá phải thái chỉ, nếu làm nham cá nướng thì cá mang nướng bằng than hoa (nướng 3 lửa, phơi 2 sương). Thịt ba chỉ thái miếng nhỏ, mỏng, nướng chín thơm. Củ chuối nạo nhỏ, vừng lạc rang thơm giã nhỏ. Khế, lá sung, lá gừng non, lá nhội, cùi dừa thái thật nhỏ. Tất cả những nguyên liệu này cùng bít quyết riêng của người Hà Châu, món nham thơm ngon béo bùi đã ra đời.
Măng đắng Ngàn Me
Người dân Thái Nguyên thường gọi món măng này là măng Ngàn Me bởi nó được lấy từ rừng Ngàn Me về. Măng đắng được bày bán khá nhiều ở chợ Chùa Hang, Đồng Hỷ và dọc Quốc lộ 1B đoạn qua cầu Gia Bẩy.
Không giống các loại măng khác, măng đắng ngàn me chỉ nhỏ cỡ bằng ngón tay người lớn. Cách chế biến đơn giản nhất là luộc măng chấm với muối ớt hoặc mắm tôm chanh. Nếu không muốn ăn luộc có thể chế biến măng thành nhiều món: xào, nấu canh… mỗi món ăn lại có một vị hấp dẫn riêng.
Măng nhồi thịt
Món măng nhồi thịt thơm ngon cũng rất dễ chế biến. Thịt nác vai lợn băm nhỏ trộn với nâm hương, mộc nhỉ, hành hoa, muối, bột ngọt, hạt tiêu nhồi vào những ống măng nứa đã luộc xong đem hấp khoảng 30′ là chín.
Rau rừng
Bồ khai là loại rau rừng mọc ven núi đá, món này có thể xào không hay xào với trứng gà, thịt băm, thịt bò…vẫn được coi là đặc sản thiết khách của Thái Nguyên
Vùng rừng Định Hóa, Phú Lương, Đồng Hỷ, Võ Nhai đều có cây rau ngót rừng (có nơi gọi là rau sắng). Rau ngót rừng nấu canh có bị thơm mát, rất bùi.
Bánh tro
Bánh tro hay còn gọi là bánh gio, bánh nẳng, là thứ bánh dân dẫ mà bà con người Kinh, Tày, Sán Chay…thường làm. Gạo nếp ngâm kỹ trong nước tro đốt từ cây vừng và một số cây cỏ khác xong dùng lá chít hoặc lá dong gói thành bánh, đem luộc chín. Bánh tro ăn nguội, chấm với mật mía hay mậ tong, vị hơi nồng cho cảm giác mát dịu nơi dầu lưỡi.
Bánh chưng Bờ Đậu
Loại nếp làm bánh là loại nếp thơm ngon vùng Định Hóa, lá dong gói bánh lấy từ núi rừng Định Hóa, Chợ Đồn. Sự khéo léo trong việc gói, luộc bánh (nước giếng đá gan gà vùng Bờ Đậu rất trong và ngọt) đã làm cho bánh chưng Bờ Đậu có hương vị đặc biệt thơm ngon.
Nem chua Đại Từ
Nhắc đến nem chua, nhiều người chỉ thường nghĩ đến Thanh Hóa hay nem chua làng Vẽ (Hà Nội ), Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) , Đông Ba (Huế)… mà ít ai biết trên đất Thái Nguyên cũng có một vùng làm nem chua ngon không kém, đó là Đại Từ. Tuy nhiên không phải ở xã nào của Đại Từ cũng có mà nem chua chỉ có ở 3 xã: Văn Yên, Ký Phú và Yên Mỹ.
Không giống với các loại nem chua khác có thể bóc ra là ăn được ngay, nem chua Đại Từ cần có một thao tác nhỏ nữa là nướng bằng than củi hoặc lăn qua chảo mới có thể ăn được. Với thành phần gồm có: thịt nạc mông, tỏi, rượu, hạt tiêu, thính và lá ổi, mỗi chiếc nem được gói cẩn thận bằng lá chuối và có thể được đến vài ngày.
6 . Đặc sản Thái Nguyên
Chè Tân Cương
Thái Nguyên vốn nổi tiếng là xứ chè, và trong rất nhiều các loại chè ngon ở Thái Nguyên, chè Tân Cương được xếp đầu bảng và được tôn vinh là “đệ nhất danh trà”. Đất, nước, khí hậu vùng Tân Cương cùng với những bí kíp nghề chè của người dân nơi đây đã làm ra những cánh chè móc câu Tân Cương mà cả hương, sắc, vị của nó làm đắm say bao người yêu chè
Gạo bao thai Định Hóa
Có thể nói, từ nhiều đời nay, bà con nông dân trên mảnh đất ATK cách mạng đã gắn bó mật thiết với cây lúa bao thai lùn. Đây là giống lúa đặc biệt, không ưa thâm canh, phụ thuộc vào ánh sáng, ít sâu bệnh, thích nghi với thổ nhưỡng, khí hậu vùng núi cao. Giống lúa này cho năng suất cao hơn các giống lúa bao thai thông thường; có độ dẻo, thơm quyến rũ ngay cả khi đã được chế biến thành mỳ, bún, bánh phở, bánh cuốn.
Miến Việt Cường
Không biết nghề làm miến có ở xóm Việt Cường, xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ từ bao giờ, nhưng sản phẩm miến Việt Cường đã trở thành thương hiệu của tỉnh Thái Nguyên. Người Việt Cường làm miến quanh năm, nhưng vụ miến thường bắt dầu từ giữa năm cho đến gần Tết. Cũng giống như nhiều địa phương khác, người dân Việt Cường làm miến từ nguyên liệu chính là dong. Nhưng để làm ra những cân miến đặc biệt mà người tiêu dùng thưởng thức môt lần rồi nhớ mãi, ngay từ khi chọn dong người Việt Cường đã rất cầu kỳ.
Dong phải là thứ Dong riềng tía, ngọt mát đặt mua trên những cánh rừng tận Bắc Kạn. Dong ấy đem về làm sạch sau đó dùng dao nhỏ gọt bỏ những phần hỏng, cạo vỏ rồi cho vào mài nát. Sau khi dong được làm nhuyễn, người thợ bọc vào một tấm vải màn thưa để lọc, nước lọc dong là nước mưa sạch và không có váng bẩn. Có thể dùng nước giếng nhưng phải là giếng đào chứ không dùng giếng khoan. Sau khi đã có nước dong gột qua 2 đến 3 lần người thợ sẽ pha chế thêm một phần bột gạo và một số phụ gia nữa và bắt đầu quấy bột cho thật sánh, công đoạn này đòi hỏi người làm miến phải dẻo dai và có sức khỏe vì càng lúc bột càng đặc hơn, phải quấy liên tục và đều tay thì bột không bị vón và sống.
Miến thường được chia làm 2 loại đó là miến trắng và miến tráng mộc. Miến tráng mộc làm khó hơn, đòi hỏi kỹ thuật cao hơn, chính vì thế mà giá thành của loại này cũng cao hơn so với miến trắng, miến trắng chủ yếu là hàng được mọi người đặt để đem đi biếu, làm quà vì loại miến này có “hình thức” đẹp hơn.
Sau khi bột được cho vào máy ép thành sợi miến, người thợ dàn miến ra phên và đem phơi. Độ đẹp của miến phụ thuộc nhiều vào thời tiết, ngày nắng đều và không gắt phơi miến là đẹp nhất, vì miến khô chủ yếu bằng gió và nắng nhạt, nếu nắng gắt quá sẽ khiến miến mất nhiệt nhanh dẫn đến sợi miến khi nấu bị khô và không còn màu trong nữa. Thông thường một mẻ phơi đẹp là khoảng 2 nắng, Miến sau khi phơi kỹ sẽ được gói lại thành từng “con” để nơi cao ráo tránh độ ẩm.
Tương nếp Úc Kỳ
Nghề làm tương ở xã Úc Kỳ không rõ chính xác có từ bao giờ, chỉ biết từ lâu, mỗi gia đình đều có ít nhất 1 chum tương để ăn trong năm và làm quà biếu khách đến chơi. Theo thời gian, nghề làm tương nếp đã trở thành nghề truyền thống của người dân địa phương và trở thành thứ ẩm thực đặc sản của Thái Nguyên. Tương nếp ở đây được làm từ 3 nguyên liệu chính là gạo nếp, đỗ tương và muối trắng. Tuy nhiên, chỉ có tương làm bằng gạo nếp Thầu dầu mới là ngon nhất. Quy trình làm tương cũng rất công phu, đầu tiên, gạo nếp Thầu dầu được nấu thành cơm sao cho chín đều và không bị khô, sau đó trải ra nia sạch phơi, đảo đều qua 3 ngày rồi lấy lá ngái đậy lên trên để ủ, đến khi cơm lên mốc có màu vàng hoa cau là được. Đối với đỗ tương, đem rang thơm rồi xay vỡ, cho vào chum ngâm với nước muối từ 12 đến 15 ngày, đến khi nếm có vị ngọt thì cho mốc vào ủ khoảng 30 ngày là tương ngấu. Trong thời gian này, cần kiểm tra tương cẩn thận bằng việc dùng gậy tre sạch quấy đều từ 2-3 lần/ngày để cho đỗ, mốc quyện đều với nhau và dùng túi bóng bịt kín miệng chum để tương giữ được mùi thơm, không bị ruồi muỗi làm bẩn.