>
>
Huyện Trà Bồng

Huyện Trà Bồng

Huyện Trà Bồng

Mô tả

Địa lý
Huyện Trà Bồng là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc của tỉnh Quảng Ngãi, có độ cao từ 80 - 1.500 m so với mực nước biển.
Huyện có vị trí địa lý:
Phía đông giáp huyện Bình Sơn và huyện Sơn Tịnh
Phía tây giáp huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam
Phía nam giáp huyện Sơn Tây
Phía bắc giáp hai huyện Bắc Trà My và Núi Thành thuộc tỉnh Quảng Nam.
Huyện lỵ của huyện là thị trấn Trà Xuân, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 50 km về phía tây bắc theo Quốc lộ 1 và tỉnh lộ 622.
Trà Bồng nằm ở vùng khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ trung bình 26-27 °C, có 2 mùa mưa nắng tương đối rõ rệt. Mùa nắng từ tháng 2 đến tháng 8 (âm lịch), khí hậu mát mẽ, mưa nhiều, lượng mưa trung bình 50-60mm/tháng. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, thường hay gây lũ, lụt, sạt lở núi gây khó khăn trở ngại cho đời sống nhân dân các dân tộc trong huyện.
Là một huyện miền núi nên diện tích đồi núi chiếm phần lớn đất đai trong huyện, vùng đồng bằng nằm ở phía Đông huyện, giáp với huyện Bình Sơn và phía hữu ngạn sông Trà Bồng, nằm ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân.
Địa hình huyện Trà Bồng khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các khối núi và sông suối chằng chịt trong các thung lũng nhỏ hẹp, núi ở đây có độ dốc lớn.
Dân tộc Kinh sống tập trung chủ yếu ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân. Người Kor sống rải rác ở các xã còn lại của huyện. Người Kor ở Trà Bồng thuộc nhóm ngữ hệ Môn – Khmer. Người Kor sống thành từng Nóc (làng), có đến vài chục hộ gia đình cùng quần cư trong 1 Nóc, Nóc của người Kor thường ở trên lưng chừng núi hay ven các dòng sông suối hoặc ở giữa thung lũng. Phương thức sản xuất canh tác cũng gần giống với các dân tộc khác ở dọc Trường Sơn - Tây Nguyên, chủ yếu là sản xuất lúa nước kết hợp với kinh tế nương rẫy. Bên cạnh đó người Kor còn săn bắt, hái lượm, đánh cá dọc theo các sông, suối.
Trong quá trình phát triển bên cạnh nét văn hóa chung với các dân tộc khác nhau ở miền Tây Quảng Ngãi, người Kor ở Trà Bồng vẫn bảo lưu và phát triển được vốn văn hóa cổ truyền giàu bản sắc của dân tộc mình như: các lễ hội truyền thống, Nghệ thuật Dân ca, Dân nhạc, Dân vũ, Nghệ thuật Điêu khắc, đan lát, trang sức, trang phục độc đáo riêng có của Trường Sơn – Tây Nguyên.
Trên địa bàn huyện có trên 4 dân tộc cùng sinh sống gồm Kinh, Kor, Hrê và Ca Dong, ngày nay còn có dân tộc Mường và các dân tộc khác... Về tín ngưỡng, tâm linh các dân tộc Trà Bồng đều theo Đảng và Bác Hồ, người Kor Trà Bồng tôn thờ vạn vật hữu linh, một số theo 4 tôn giáo nhỏ là Thiên Chúa, Tin Lành, Phật giáo, Cao Đài.
Lịch sử
Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, Trà Bồng xưa là một trong bốn nguồn (nguyên) của tỉnh Quảng Ngãi, được gọi là "Nguồn Đà Bồng". Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), triều Nguyễn đổi tên thành "Nguồn Thanh Bồng". Năm 1915 Thực dân Pháp đổi thành "Đồn Trà Bồng" gồm 3 tổng: Sơn Bồng, Sơn Thuận và Sơn Thọ, chia làm 34 sách (làng).
Năm 1930, Thực dân Pháp đặt tại đây Đồn kiểm lý, dưới đồn kiểm lý có " Chánh, phó tổng dịch Man" ở các tổng và "Sách trưởng" ở các sách. Sau đó "Đồn Trà Bồng" được đổi tên thành " Châu Trà Bồng". Ở các xã vùng thấp, đồng bào Kinh sinh sống (lúc này thuộc huyện Bình Sơn) gồm: Làng Xuân Khương, ấp Đại An; làng Đông Phú, ấp Phú Tài; làng Bình Hòa, làng An Phong, ấp Thạch Bích; ở mỗi làng Thực dân Pháp đặt một Lý trưởng đứng đầu.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính quyền cách mạng đổi tên châu Trà Bồng thành huyện Trà Bồng, các sách cũ nhập thành các xã mới, các làng ở phía tây huyện Bình Sơn nhập vào huyện Trà Bồng, hình thành 10 xã đồng bào dân tộc thiểu số là: Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thủy, Trà Sơn. Đối với các làng, ấp người Kinh, chính quyền tổ chức lại thành 3 xã: Xuân Khương và Đại An hợp thành xã Nguyễn Lang; Đông Phú và Phú Tài hợp thành xã Đào Yển; Bình Hòa, Vinh Hòa, An Phong, Thạch Bích hợp thành xã Nguyễn Hiệt. Đầu năm 1946, ba xã Nguyễn Lang, Nguyễn Hiệt, Đào Yển hợp nhất thành xã có tên là Võ Cẩn.
Cuối năm 1955, sau khi tiếp quản Trà Bồng, chính quyền Sài Gòn đổi huyện Trà Bồng thành quận Trà Bồng, lập nên 7 xã và 13 ấp. ba xã người Kinh đổi tên gọi là Trà Khương, Trà An, Trà Hòa. Về phía chính quyền cách mạng, để xây dựng căn cứ địa phục vụ cho lãnh đạo, chỉ đạo, vào năm 1957, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tách 4 xã người Kor của huyện Sơn Hà là: Sơn Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân, sáp nhập vào huyện Trà Bồng và lần lượt đổi tên thành: Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Tân, Trà Bùi.
Tháng 5 năm 1958, để thuận lợi cho việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tách các xã Đông Bắc của huyện, thành lập khu I (Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình, Trà Sơn, Trà Thủy, Trà Giang) các xã vùng núi Cà Đam thành lập khu II (Trà Tân, Trà Bùi, Trà Phong, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thọ, Trà Xinh, các xã phía Tây thành lập khu IV (Trà Khê, Trà Thanh, Trà Hiệp, Trà Lâm).
Đầu năm 1970, Trà Bồng được chia làm 2 huyện là Đông Trà và Tây Trà. Cuối năm 1970, Khu ủy V nhập huyện Trà Bồng và Sơn Tây thành Khu Sơn Trà trực thuộc Khu A của Khu ủy V. Cuối năm 1972, Khu Sơn Trà giải thể, các xã Sơn Tây trở lại Sơn Tây, các xã thuộc huyện Trà Bồng được tái lập như cũ.
Sau năm 1975, sau nhiều lần tách, nhập các đơn vị hành chính cơ sở, huyện Trà Bồng thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 20 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Tây, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh và Trà Xuân.
Ngày 20 tháng 4 năm 1978, sáp nhập ba xã Trà Tây, Trà Xinh và Trà Trung vào xã Trà Thọ.[2]
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Trà Bồng thuộc tỉnh Quảng Ngãi.[3] gồm 19 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh và Trà Xuân.
Ngày 23 tháng 6 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 39/1999/NĐ-CP về việc thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Sơn Tây, Đức Phổ, Ba Tơ và Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi[4]. Theo đó, thành lập thị trấn Trà Xuân trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Trà Xuân.
Năm 2002, huyện Trà Bồng có thị trấn Trà Xuân và 18 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh.
Ngày 1 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/2003/NĐ-CP.[5] Theo đó, tách 9 xã: Trà Khê, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Quân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Trung, Trà Xinh để thành lập huyện Tây Trà.
Huyện Trà Bồng còn lại thị trấn Trà Xuân và 9 xã: Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Thủy, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Sơn.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020)[6]. Theo đó:
Sáp nhập toàn bộ 339,10 km² diện tích tự nhiên và 20.168 người của huyện Tây Trà (gồm 9 xã: Trà Khê, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Quân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Trung, Trà Xinh) trở lại huyện Trà Bồng.
Hợp nhất hai xã Trà Quân và Trà Khê thành xã Sơn Trà.
Hợp nhất hai xã Trà Nham và Trà Lãnh thành xã Hương Trà.
Hợp nhất hai xã Trà Trung và xã Trà Thọ thành xã Trà Tây.
Huyện Trà Bồng có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Hành chính
Huyện Trà Bồng có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Trà Xuân (huyện lỵ) và 15 xã: Hương Trà, Sơn Trà, Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Phong, Trà Phú, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Tây, Trà Thanh, Trà Thủy, Trà Xinh.

Xem thêm
image

Danh sách phường xã

Địa danh liên quan